TRƯỜNG CA HÀN MĂC TỬ:
HÀNH TRÌNH VỀ CÁI ĐẸP
Đoàn Xuân Kiên
Nghe nhạc: https://www.youtube.com/watch?v=1GnsD5sEpFM
Trường ca
Hàn Mặc Tử ra mắt quần chúng vào những ngày
cuối năm 1993. Về hình thức thì đây là một tổ hợp những ca khúc Phạm Duy phổ
thơ Hàn Mặc Tử. Nhưng người nghe có thể hình dung được chủ đích của tác giả tổ
khúc này không phải chỉ là phổ nhạc một số bài thơ lẻ của một nhà thơ như ông
vẫn thường làm. Trường ca Hàn Mặc Tử
có thể xem là một bản diễn giải bằng nhạc toàn bộ cuộc hành trình nghệ thuật
của tâm hồn Hàn Mặc Tử.
Hành trình
nghệ thuật của Trường ca Hàn Mặc Tử
Trường ca Hàn Mặc Tử được bố cục
làm ba phần mang tựa đề như sau: (1) Tình quê; (2) Trăng sao; (3) Ave Maria.
Mỗi phần gồm có ba phân khúc nhạc được hình thành là từ phổ một bài thơ hoặc từ
tập hợp một số các trích đoạn thơ, có khi lại chỉ là phổ một trích đoạn của một
bài thơ mà thôi.
Phần I - Tình quê - gồm ba phân khúc: “Tình quê”,
“ Đây thôn Vỹ Giạ”, và “Đà lạt trăng mờ”. Đấy là những phân khúc nhạc phổ từ ba
bài thơ Hàn Mặc Tử làm từ những ngày còn trẻ (1).
Nhạc mở đầu phân khúc một là những âm thanh ngân nga êm ả nhưng rất lãng
mạn . Chất nhạc đã được kĩ thuật hòa âm làm bật lên tính cách đặc trưng của
nhạc chiều (serenade) quen thuộc trong nhạc cổ điển phương Tây, tất cả quyện
vào nhau để tạo nên một khung cảnh thanh bình từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.
Phân khúc hai là nhạc phổ
toàn bài thơ “Đây thôn Vỹ Giạ”. Nhạc mở đầu gợi tả một không gian u tịch, vắng
lặng như những buổi hoàng hôn nơi đồng quê những thuở thanh bình: tiếng côn
trùng kêu vẳng, hoàng hôn uốn lượn xa vắng như tiếng phi lao rì rào trong gió,
như tiếng gió thì thầm lúc chiều tà. Không gian âm nhạc thật trữ tình. Nhạc và
hòa âm của phân khúc này chuyển sang nét u uẩn, gợi tả những cảm giác bâng
khuâng man mác mà ta vẫn gặp trong những ngâm khúc của văn học cổ điển. (Không
gian nghệ thuật trong phân khúc này gợi lên ấn tượng về những bài thơ Đường của
trường phái biên tái, hoặc giả những phân cảnh người tình trong truyện Kiều tha
thẩn đi tìm hương cũ nơi vườn xưa quạnh vắng).
Từ nét buồn u uẩn mênh
mang, nhạc chuyển sang phân khúc ba với tựa đề “Đà lạt trăng mờ”. Phần nhạc dạo
tạo ngay cảm tưởng về một sự thiêng liêng huyền nhiệm của không gian qua cảm
nhận của nhà thơ. Nhạc đề của phân khúc là nỗi đắm say trong tiếng gọi ảo huyền
của cái Đẹp mà nhà thơ đã cảm thán rằng “phút thiêng liêng đã khởi đầu”. Đã
thoáng hiện những băn khoăn khắc khoải khi tiếng nhạc vút lên niềm u uất rền rĩ
như nỗi đơn côi của người nghệ sĩ. Nhạc đã có sức đồng cảm cao đối với một cảm
thức tế vi của nhà thơ.
Khởi đầu từ hành âm êm ả
thanh thoát đến vắng xa u ẩn, rồi chuyển sang sâu lắng. Nhạc gợi lên hình ảnh
con người đi trên hành trình từ hồn nhiên của tuổi nhỏ đến xôn xao tình trẻ,
rồi đến tiếng gọi kín nhiệm của nội tâm đã biết thao thức kiếm tìm. Không gian
nhạc là không gian chiều tà đi vào đêm.
Phần II - Trăng sao - gồm ba phân khúc mang tựa
đề: “Trăng sao rớt rụng”, “Hồn là ai”, và “Trút linh hồn”. Mở đầu phân khúc một
là đoạn tán thán về sự mầu nhiệm của ánh trăng. Tính cách của nhạc ở đây là
tính cách thánh ca, nhưng đối tượng của lời tán thán không phải là một hình ảnh
siêu nhiên mà chỉ là ánh trăng. Nhà thơ
bị trăng mê hoặc và tắm đẫm hồn mình trong ánh trăng. Đấy là khởi điểm của
những xúc cảm thơ trong Thơ Điên-Đau
Thương, tập thơ Hàn Mặc Tử làm từ khi phát bệnh phong. Hành âm của phân
khúc lần lượt đi qua bốn biến điệu: vầng trăng --> chơi với trăng -->
trăng tự tử --> rượt trăng. Có lẽ đây
là lần đầu tiên tâm trạng khúc mắc của Hàn Mặc Tử được thể hiện một cách cụ thể
qua hình tượng gợi tả của âm nhạc: hình tượng âm nhạc tăng cường độ xúc cảm dần
qua từng biến điệu, cho đến cuối biến điệu thứ tư. Nhạc vờn múa như một cơn
say, trong một kết cấu đẹp. Nhạc đi những bước ma quái làm nổi bật xúc cảm của
người nghệ sĩ trước nỗi cô đơn vì cảm nhận vẻ Đẹp mê hồn mà nhân gian dường như khó có thể cảm và hiểu được,
Phân khúc hai mở đầu bằng
tiếng sáo Mèo rền rền, để rồi sẽ đeo đẳng mãi suốt phân khúc. Nhạc chuyển qua
những kết cấu đầy kịch tính để diễn tả cảnh người nghệ sĩ vừa thoát hồn để dẫn
hồn mình đi qua suốt một đêm, lúc thì cười như điên sặc sụa cả mùi trăng, lúc
thì cùng ngả nghiêng lăn lộn giữa muôn hình, lúc thì dìm nhau xuống một vũng
trăng êm, lúc thì lặng yên trong thổn thức, lúc thì bay lên cho tới một hành
tinh... Tâm sự nhà thơ trong tập Thơ
Điên-Đau Thương được thể hiện bằng những hình tượng âm nhạc phức tạp về
giai điệu và hòa âm, gợi tả nỗi u ẩn hoang mang của tâm hồn thơ.
Phân khúc ba có thể xem
như một thoái trào của đợt sóng âm nhạc
trong phần II. Ba biến điệu nối tiếp nhau nặng nề như cảnh tha ma mộ địa, lẩn
khuất tiếng sáo Mèo nghẹn ngào như tiếng cú đêm khuya. Hình tượng âm nhạc cũng
dàn trải như khoảng trống mênh mông của không gian tịch lặng. Nhạc đi êm và nhẹ
mà sao vẫn vương vấn nỗi thê lương. Lời thì thầm của nhà thơ là lời bộc bạch về
tâm tình ông dành cho cuộc đời thân mến. Ba trích đoạn thơ ghép lại thể hiện
được tâm sự khắc khoải đau đớn trong giai đoạn sáng tác Thơ Điên-Đau Thương.
Nghệ thuật phát triển hình
tượng âm nhạc trong phần II này là nghệ thuật ba lan: cảm xúc dâng lên từng đợt
như sóng tràn. Không gian là đêm tối mênh mang.
Phần III - Ave Maria - cũng gồm ba phân khúc: “Lạy
Bà là đấng tinh truyền thánh vẹn”, “Hỡi sứ thần thiên chúa Gabriel”, và “Phượng
Trì, Phượng Trì”.
Phân khúc một là lời xưng
tụng đấng “tinh truyền thánh vẹn”. Nhạc bắt đầu bằng đoạn hợp xướng nghiêm
trang, thánh thiện. Toát ra toàn thể phân khúc là vẻ đẹp thuần khiết của hình
tượng người nữ trong nghệ thuật muôn thuở. Nhạc trở về giai điệu thanh thản an
hòa.
Sau phần tán tụng vẻ Đẹp
trinh nguyên, phân khúc hai chuyển sang lời cảm thán về hình tượng thiên thần
bằng một biến điệu khác: nhạc trở nên xa vắng như lời thì thầm trong kinh cầu
nguyện có tác dụng như những lời phản
tỉnh nội tâm, những nét nhạc trầm lắng như e sợ làm kinh động sự im lặng, hay
như nỗi ngây ngất của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp mong manh như gió như sương
huyền diệu, “bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu”. Người nghệ sĩ đã hát bao nhiêu
lần về Mẹ rồi, vậy mà những âm thanh về hình tượng người Mẹ trong phân khúc này
vẫn quyến rũ với một giai điệu láy lả lướt vẻ đẹp dân ca.
Phân khúc ba -“Phượng Trì, Phượng Trì”- láy trở lại hành
âm của phân khúc một để làm viên mãn một chu trình. Bốn câu thơ đã ngân vang âm
hưởng lời cảm thán vẻ Đẹp thánh thiện của Nàng Thơ. Hình tượng âm nhạc toát ra
tính cách trữ tình, rất người mà vẫn trong suốt như vẻ đẹp thiên thần.
Trọn phần III là một bài
thơ dài được phổ thành nhạc. Không gian vẫn là không gian của dạ khúc, nhưng
tính cách đã thay đổi hẳn qua màu sắc ấm áp huy hòang của âm thanh và ánh sáng.
Nhạc đề là sự xưng tụng vẻ Đẹp thánh thiện được biểu hiện qua hình tượng một
Người Nữ nguyên mẫu: khi thì là Đức Bà, khi thì hóa thân làm Phượng Trì. Nghệ
thuật biểu hiện là nhạc nhà thờ, vừa có đồng ca vừa có độc thoại. Bao trùm lên
toàn thể là vẻ đẹp rực rỡ của thế giới bình an mà tâm hồn người thơ về nương
náu.
Trường ca Hàn Mặc Tử đã phát
triển nhạc đề để thể hiện diễn biến tâm tình của nhà thơ quá cố: từ chất thơ
mộng trong sáng buổi đầu, nhạc chuyển sang những biến điệu đầy kịch tính ở phần
hai, trước khi chuyển sang nét nhạc thanh thoát của vẻ Đẹp thiên thần. Đấy cũng
là hành trình thơ Hàn Mặc Tử.
Hành trình thú đau thương của người nghệ sĩ
Kể từ khi nhà thơ qua đời
đến nay đã hơn 50 năm. Nhiều người đã viết sách và bài báo, nỗ lực phân tích
tâm sự nhà thơ bằng nhiều ngả: có người đã dựa vào căn bệnh hiểm nghèo của thi
sĩ mà nói về những tâm trạng điên loạn bất thường của Hàn Mặc Tử trước khi
nương náu tâm hồn trong ánh sáng tôn giáo. Có người đã dùng con mắt phân tâm
học để diễn dịch tâm hồn Hàn Mặc Tử qua những biểu hiện phức tạp của những ức
chế tâm lí. Trường ca Hàn Mặc Tử của
Phạm Duy là một nỗ lực hiếm hoi của người nghệ sĩ âm nhạc nhằm diễn giải bằng
âm thanh hành trình nghệ thuật của nhà thơ.
Trong lời dẫn giải về tác
phẩm Trường ca Hàn Mặc Tử, Phạm Duy
cho biết rằng ông đã từng làm quen với thơ Hàn Mặc Tử từ thuở còn đi học. Ông
nêu ra những chủ đề thơ Hàn Mặc Tử mà ông cảm nhận được: tình yêu, tình dục, sự
đau khổ, sự đau thương, sự điên dại, cái chết, Đạo, Thượng Đế, Thiên Chúa (2).
Điều này cho thấy mối đồng cảm sâu sắc của tâm hồn người nhạc sĩ đối với tâm
hồn nhà thơ. Những nếp gấp tâm tình của Hàn Mặc Tử được thể hiện dần qua suốt
những hành âm của nhạc, cứ thế nhạc phát triển qua ba phần với ba phân khúc,
như từng đợt sóng xô cao thấp khác nhau. Có thể xem Trường ca Hàn Mặc Tử là tấm bản đồ tâm hồn thơ Hàn Mặc Tử. Bố cục
ba phần của Trường ca Hàn Mặc Tử rất tương ứng với ba giai đoạn biến chuyển
trong tâm sự thơ Hàn Mặc Tử:
(1) Thời thanh xuân lãng
mạn đẹp ngời của thời kì Tình Quê rất
tương ứng với phần I (“Tình quê”) của bài trường ca của Phạm Duy, cũng thơ mộng
trữ tình và tràn trề tình yêu thương;
(2) Thời điên loạn, đau
đớn vì thể nghiệm nỗi đau thương của thân phận, cũng là thời kì nhà thơ sáng
tác Thơ Điên-Đau Thương, rất sát hợp
với phần II (“Trăng sao”), với những nét nhạc vật vã kêu gào và ma quái;
(3) Thời kì Hàn Mặc Tử
sáng tác Xuân Như Ý trở về sau là thời kì ông tìm được sự nương náu tâm hồn
trong Thiên Chúa, được hình tượng hóa ở phần III (“ Ave Maria”) là phần nhạc
chuyển sang sự yên ổn trong thế giới của cái Đẹp vĩnh hằng được hiện thân qua
nàng thơ Phượng Trì.
Con đường thơ của thi sĩ
Hàn Mặc Tử khi hóa thân vào trong bài trường ca đã trở thành một biểu tượng của
hành trình một nghệ sĩ ở giữa cuộc đời này. Ba phần của trường ca này là ba
dáng vẻ của cuộc đời được phả vào nghệ thuật trong đó có tình yêu sôi nổi mà e
ấp của một thời hoa niên lãng mạn, có những đau khổ của một đoạn đời lận đận vì
những nghiệt ngã hay những dằn xóc khác nhau, để rồi khép lại với tình yêu tìm
thấy trong thế giới vĩnh hằng trong suốt một vẻ Đẹp tinh tuyền. Có thể tóm gọn
một câu về hành trình của người thơ là một hành trình từ Thú Đau Thương đến cái
Đẹp.
Con tim yêu thương bao la
của người nghệ sĩ rung lên những nhịp điệu tình ca muôn thuở của thơ tình. Đã
có nhiều công trình phân tích những dáng
vẻ tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử. Nhưng bản phân tích của Phạm Duy thể hiện
những nét đẹp của tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử: sự dâng hiến trọn tình , sự e
ấp trộn lẫn với nỗi rạo rực, nỗi đắm say trước vẻ Đẹp thuần khiết của tình yêu.
Phần I của trường ca là sự thể hiện bằng hình tượng âm nhạc những tính cách đó
trong thơ Hàn Mặc Tử.
Thế nhưng người nghệ sĩ không chỉ dành cho
trái tim vô số của mình cho những con người yêu dấu chung quanh mà thôi. Trong
đáy sâu thẳm của con tim, anh nghe ra tiếng thì thầm vượt lên khỏi bình diện
nhân gian. Ở đây cần nhắc đến một bài viết của Hàn Mặc Tử sẽ rất có ý nghĩa khi
muốn tìm hiểu về tâm sự thơ của ông.Trong bài “Quan niệm thơ”, Hàn Mặc Tử cho
rằng thơ là “tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở
lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ vô chung với những hạnh phúc bất
tuyệt”. Nói cách khác, thi sĩ đã sống cô độc đời mình giữa cuộc thế lao xao, và
làm thơ là để tìm người tri kỉ. Làm thơ là một sự “ham muốn vô biên của những
nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt” (3) Người nghệ sĩ là
những người may mắn (hay bất hạnh ?) nghe được những tiếng nói mầu nhiệm vượt
lên khỏi chiều kích trần thế. Sự nhạy cảm tột cùng dẫn đưa con đường sáng tạo
của người nghệ sĩ qua những cơn hoan lạc với thú đau thương.
Ở điểm này, Hàn Mặc Tử
không phải là người lữ hành cô đơn. Dường như những con người nghệ sĩ chân
chính thường vẫn cảm nhận nỗi cô đơn. Và họ gặp nhau ở nỗi cô đơn đó, như thể
những người nòi tình cùng thương người đồng điệu. Hình tượng chàng Cuội trong
một vở kịch của Vũ Khắc Khoan là một biểu tượng cho tâm thức người nghệ sĩ đó:
người ta cứ bảo Cuội nói dối, nhưng kì thật Cuội “đã nhìn thấy những gì mà cái
đám người đồng thời với nó, cái đám người vừa quay cuồng trên sân khấu, không
nhìn thấy. Và tự nhiên thằng Cuội phải mang nặng cái số kiếp điêu linh của
những con người đầu tiên cảm thông với chân lí” (4). Trong khi mọi người yên
hàn sống với cuộc đời bình dị, người nghệ sĩ lại bận tâm về những chuyện rất
riêng tây xa lạ với mọi người. Đó có thể là nỗi ngậm ngùi về những hoang phế
của những vàng son đã mất (Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương), đó
cũng có thể là lời độc thoại triền miên của người tình trẻ bên đời hiu quạnh
(Trịnh Công Sơn), hoặc giả là lời tự tình của người tình già nghe tiếng gọi
nghìn thu (Phạm Duy)...
Thế thì sao lại không có
thể có một Hàn Mặc Tử điên dại trong nỗi đau của thân phận vui buồn của con
người ? Ý nghĩa của trường thơ Loạn mà Hàn Mặc Tử và các bạn ông dựng lên tại
Qui nhơn là một cách thế nổi loạn của nhóm các nhà thơ trẻ lúc bấy giờ, là dấu
chỉ của một niềm khao khát về một sự quân bình mới. Nỗi đau về phận người có
khiến thơ ông đẫm máu lệ, vang vang nỗi đau hận pha lẫn cùng niềm hoan lạc
trong một thứ tình yêu thánh hóa. Thơ điên của Hàn Mặc Tử phản ánh nỗi bi phẫn
về phận người khốn khó, mà sự đau khổ của đời này thì muôn hình vạn trạng.
Người nghệ sĩ đau nỗi đau nhân thế và sáng tác là mang thập giá thay cho chúng
ta chứ có phải đâu chỉ là người ca nhân làm mõ cho những cuộc tình đôi lứa như
người đời vẫn nghĩ. Một nhân vật của Dostoievsky đã bảo rằng: cả trái đất, từ
vỏ vào trong ruột, đều ướt đẫm nước mắt con người. Thế cho nên khi người nghệ
sĩ hát về nỗi đau khổ của kiếp nhân sinh hoặc giả hát lên cảm thức về tiếng gọi
của càn khôn, của thinh không, thì chẳng phải là lúc anh ta đã xa cách đại
chúng, trừ phi đại chúng muốn giam hãm nghệ sĩ như giam hãm những tên tù trong
vũng lầy nghệ thuật nô dịch.
Ở trên có nói rằng Trường ca Hàn Mặc Tử là mối đồng cảm giữa hai tâm hồn nghệ sĩ. Từ
những ngả đường khác nhau, xuất phát từ những thân phận khác nhau, tác phẩm của
hai người đều là tiếng lòng mình trước những hoan lạc cùng những khổ nhục của
kiếp người. Thêm một lần nữa, Phạm Duy với Trường
Ca Hàn Mặc Tử lại chứng thực cho một qui luật của văn nghệ: Nghệ thuật -nói
cho cùng- chỉ là những tiếng kêu bất bình của người nghệ sĩ trước những hệ lụy
của cuộc đời. Đôi mắt của nghệ sĩ nhìn sâu thẳm vào suốt phận người trong sáu
cõi, tấm lòng của người nghệ sĩ rung động những phận người suốt nghìn đời (5).
Người thấy gì ? Một thời vàng son của Đào nguyên đã vĩnh viễn xa rồi ư ? Đời ta
chỉ còn là một chuỗi ngày thương nhớ nơi trần gian khổ lụy, hát như chưa biết
buồn phiền chi dù cho đường về quê nhà đã khuất nẻo khơi chừng ( Văn Cao). Nơi
thành cổ rêu mốc của không gian đời người, ta vẫn đi về một cõi quạnh hiu cùng
hai vầng nhật nguyệt trĩu hai vai (Trịnh Công Sơn)... Trước thân phận mang tính
chất bi kịch của đời người, người ta có thể phản ứng một cách khác nhau: có
người an nhiên lặng lẽ đi về một cõi tịch lặng và chấp nhận hạnh phúc trong nỗi
đau tuyệt vọng (Trịnh Công Sơn), có người không nguôi hoài tưởng một thiên
đường không bao giờ trở lại (Văn Cao), có người lại dấn mình vào cuộc hiện sinh
với chính những vinh và nhục của cuộc đời mà bật lên những tiếng tâm tình trước
mọi cảnh huống của phận người. Hàn Mặc Tử và Phạm Duy đồng cảm với nhau ở điểm
này. Trường ca Hàn Mặc Tử là tiếng
hát của người nghệ sĩ về những ràng buộc của cuộc đời, là sự thăng hoa những
khổ đau và hạnh phúc của phận người thành âm nhạc và thơ.
Cái Đẹp như
một cứu rỗi
Hành trình nghệ thuật của
Hàn Mặc Tử bắt đầu từ những hoa mộng thời trẻ hồn nhiên đến những đau khổ điên loạn vì những nhục
nhằn, và khép lại với tình yêu thanh khiết trong thế giới vĩnh hằng của vẻ Đẹp
tinh tuyền. Phần 3 của Trường ca Hàn Mặc
Tử phát triển nhạc đề nhất quán với tâm sự Hàn Mặc Tử khi ông trở về an lạc
trong Đức Tin và của sự cứu rỗi. Lồng trong những giai điệu an hòa là hình
tượng âm nhạc về Đức Bà tinh truyền thánh vẹn, về Phượng Trì ! Nhạc ở đây là
lời hân hoan của người thơ khi đã nhận được ơn phước cả. Đã hơn một lần các nhà
phê bình bàn về Đức Tin của nhà thơ Hàn Mặc Tử. (6) Phạm Duy dường như không
bận tâm với câu hỏi: Hàn Mặc Tử tìm được cứu rỗi trong Đức Tin tôn giáo hay
trong Nghệ Thuật ? Người nghệ sĩ trong ông đã cho dòng cảm xúc nhạc phơi phới
cùng Đức Mẹ,về Mẹ Sầu Bi. Giai điệu và nhạc hứng của phần 3 này cho thấy Phạm
Duy đã phổ bài “Ave Maria” (hay là “Thánh nữ Đồng Trinh”) không theo cùng cách
cảm nhận như của một nhạc sĩ thiên chúa giáo Hải Linh trước kia. Ông tước bỏ
phần đầu của bài thơ mà Hải Linh đã dùng để phát triển nhạc đề cho bài hợp
xướng mang đậm màu sắc nhạc tôn giáo: “ Như song lộc triều nguyên ơn phước
cả...” Phổ nhạc bài thơ này, Phạm Duy vẫn tiếp tục quan niệm của ông trước đây
khi phổ thơ Phạm Thiên Thư: vẻ đẹp quyến rũ trong thơ Phạm Thiên Thư là của sự
nguyên trinh thánh thiện, là cái Đẹp của thế giới nghệ thuật trong đó -trong
cõi tuyệt đối vô cùng- không gian và thời gian không còn tuổi nữa. Phạm Duy đã
chẳng từng tâm đắc với chính mình rằng những bài hát ông phổ thơ Phạm Thiên Thư
là những bài hát thanh cao nhất của thời đại đấy ư ? (7) Hát lên tiếng hát xưng
tụng một Thiên Thần là một cách thế của người nghệ sĩ ngợi ca cái Đẹp Nguyên
Mẫu. Ở đây là Đức Bà nguyên tuyền thánh vẹn, là Phượng Trì, là Mẹ Sầu Bi. Ở
trong một số bài thơ khác, có thể là hình tượng Ni Cô (8). Ngôn từ ở đây chỉ là
chiếc bè giả tạm để chuyên chở một cảm nhận về một thế giới vĩnh cửu của Mĩ
thể. Mĩ thể là điểm đi tới và cũng là điểm quay về của nghệ thuật.
Phạm Duy tâm sự rằng
nguyên ủy của ý định sáng tác Trường ca
Hàn Mặc Tử là ông muốn tiếp tục góp phần vào hóa giải chuyện oan khiên to
lớn của cuộc đời Việt Nam sau nửa thế kỉ chiến tranh và hận thù; người nghệ sĩ
thiết tha với niềm tin tưởng rằng nghệ thuật có thể tiếp cận với Đạo trong công
việc siêu hóa mọi sự (9). Hiểu như thế thì Hàn Mặc Tử trở thành một hình tượng
nghệ thuật để biểu tượng cho thân phận dân tộc Việt Nam chúng ta trong một thời
oan khổ dài dằng dặc. Âu cũng là một cao vọng đáng trọng của người nhạc sĩ già
một đời muốn chia sẻ tiếng khóc câu cười với nước non. Nỗi trăn trở của Phạm
Duy về đất nước gần đây đã được tô đậm qua một trường ca gây nhiều xúc động (Bầy Chim Bỏ Xứ - 1990). Trong một trang
viết gần đây, ta cũng gặp một lần nữa những trăn trở về nỗi nhục nhằn của người
trí thức văn nghệ Việt Nam (10). Nhưng cứ như sự phát triển nhạc đề của trường
ca thì ý nghĩa của tác phẩm
đã tự nó có sức nặng của một tác phẩm nghệ thuật phản ánh những cảm xúc
về phận người biểu hiện qua thân phận một người nghệ sĩ. Cũng gần gũi với thời
gian viết trường ca về Hàn Mặc Tử, Phạm Duy tâm tình rằng đối với ông, chỉ có
ba điều quan trọng: tình yêu, đau khổ và cái chết (11). Đó là những chủ đề phổ
quát của văn học nghệ thuật. Những chủ đề đó cũng rất đậm trong Trường ca Hàn Mặc Tử .
Nếu quả thật Phạm Duy vẫn
canh cánh lòng sắt son với đất nước như ông vẫn từng son sắt nửa thế kỉ vừa
qua, thì ở trường ca này, tình non nước đã nâng lên một cấp độ khác. Ông đã hát
về thân phận dân tộc ông trong bối cảnh bao trùm hơn: Con Người với những nỗi
bi hoan nghìn đời của nó. Khóc cười theo mệnh nước sao đành khi chính địa cầu
này cũng nổi trôi và tràn đầy nước mắt ? Bốn mươi năm trước ông hát cho “lịch
sử dân ta luống nghẹn ngào” (Con đường
cái quan), nay ông hát “dâng lời cảm tạ phò nguy, cơn lâm lụy vừa trải qua
dưới thế” (Trường ca Hàn Mặc Tử ).
Nghệ thuật và đối tượng của nó là cái Đẹp đã trở thành sự cứu chuộc cho phận
người.
Một tác phẩm thơ phổ nhạc lớn trong
sự nghiệp
Phạm Duy
Trong kho tác phẩm đồ sộ
của Phạm Duy, thơ phổ nhạc có một chỗ đứng đáng kể. Phải thừa nhận một điều
rằng nhạc của Phạm Duy đã làm bất tử một số bài thơ, và ngược lại thơ cũng đã
gợi hứng cho ông viết nên những giai điệu ca khúc mượt mà quyến rũ nhiều thế hệ
người nghe. Từ ca khúc đầu tay Cô hái mơ (1942) cũng là một bài thơ phổ nhạc, đến Trường ca Hàn Mặc Tử là một quá trình
nghệ thuật miệt mài công phu. Trường ca này là một công trình thơ phổ nhạc rất
khác so với những bài trước kia thường chỉ là những đoản khúc hoàn chỉnh riêng rẽ, dù có đặt
chúng vào một tập hợp (như Đạo ca, Ngục ca, Hoàng Cầm ca). Đây là một công trình dài hơi và cũng dài ngày -nếu chỉ tính từ khi bài “Tình quê” xuất hiện như một phụ bản xinh xắn trên tập
san văn nghệ Thế Kỷ Hai Mươi (1961)
tại Sài gòn.
Ngoài Phạm Duy, trước kia
còn có Hải Linh và Viết Chung cũng phổ nhạc vào thơ Hàn Mặc Tử. Mỗi người một
phong cách khác nhau. Nhưng cũng chỉ với Phạm Duy mới thấy một khối lượng phổ
nhạc thơ Hàn Mặc Tử đồ sộ bằng một số những kĩ thuật đa dạng và một phong cách
đặc sắc. Đăc biệt là phong cách thơ phổ nhạc của Phạm Duy giàu có về giai
điệu và giữ trọn vẹn chất thơ của bài thơ được phổ nhạc. Trong Trường ca Hàn Mặc Tử có đủ các kĩ thuật
phổ nhạc mà Phạm Duy thường vẫn sử dụng: lắp giai điệu vào nguyên lời thơ, biến
thể các giai điệu để phát triển nhạc đề, và chọn những giai điệu thích hợp với
cảm hứng từ chất thơ.
Kĩ thuật lắp giai điệu vào
lời thơ là thủ pháp quen thuộc thường thấy ở thơ phổ nhạc. Bài Cô hái mơ gần như phổ nguyên lời thơ
Nguyễn Bính. Bài Chiều đông phổ thơ
bài Khoác kín của Cung Trầm Tưởng là
một thí dụ khác. Phải nói ngay là Phạm Duy ít khi phổ nguyên toàn bộ lời một
bài thơ, vì đòi hỏi của cấu trúc câu nhạc cũng có, mà vì sự chọn lọc lời ca của
ông cũng có. Ở đây thì tài năng âm nhạc là yếu tố quyết định của bài thơ phổ
nhạc. Bài thơ phổ nhạc của Phạm Duy thường là những bài phong phú về giai điệu
và có giá trị gây ấn tượng cao qua những kết hợp kĩ thuật. Bài thơ phổ gần như
nguyên vẹn trong Trường ca Hàn Mặc Tử là
bài “Đây thôn Vĩ giạ” (gồm ba khổ thơ bảy chữ) thật ra cũng phải tôn trọng cấu
trúc của giai điệu mà lời thơ được kết cấu lại như sau: đoạn một của bài hát
gồm khổ thơ thứ nhất và thứ nhì của bài thơ; đoạn hai gồm khổ thơ thứ nhất và
thứ ba. Sự láy lại khổ thơ đầu là nghệ thuật gây ấn tượng bằng sự láy lại nhạc
đề của phân khúc nhạc.
Kĩ thuật biến thể các giai
điệu để phát triển rộng nhạc đề là thủ pháp đã được dùng để phổ bài Em lễ chùa này của Phạm Thiên Thư, và
trong khi phổ bài “Tình quê”. Ông đã bố cục bài hát làm hai đoạn lớn có giai
điệu không xa nhau lắm, và nối chúng lại với nhau bằng bản lề rất khéo là hai
câu thơ ngũ ngôn trong bài thơ phổ thành hai biến điệu khác nhau cho phù hợp
với hành âm của câu nhạc. Sự tròng tréo các giai điệu trong hai đoạn có tác
dụng nghệ thuật đặc sắc cho bài hát.
Kĩ thuật thường được Phạm
Duy sử dụng là kĩ thuật chuyển ý thơ thành giai điệu mà không nhất thiết bám
chắc vào nguyên lời thơ. Đây là một kĩ thuật đòi hỏi khả năng cảm thụ văn học
ngõ hầu có thể nắm bắt được ý nghĩa của câu thơ, đoạn thơ và cả bài thơ. Đây là
kĩ thuật cao diệu nhất trong việc phổ nhạc vào thơ. Phạm Duy đã sử dụng kĩ
thuật này mà hoàn thành những tác phẩm bất hủ như Tiếng sáo thiên thai, Vần thơ sầu rụng, Hoa rụng ven sông... Trong Trường ca Hàn Mặc Tử, phần phổ nhạc nhóm
những đoạn thơ về Trăng là phần rất công phu nhờ Phạm Duy đã tổ hợp các đoạn
thơ từ nhiều bài thơ khác nhau cùng chung đề tài về trăng, theo một thứ tự mà
ông cho là sát hợp với tâm trạng trong thơ. Phân khúc nhạc này là hiệu quả của
sự hội thông sâu sắc của người nhạc sĩ khi ông cho giai điệu biến ảo đầy kịch
tính, theo những âm trình rất xa nhau, làm bật lên trạng thái tâm hồn trong cơn
vật vã của nhà thơ.
Cũng như thế, phần ba của
trường ca là phần phổ nhạc bài thơ “Ave Maria” đã cực tả sự thanh thoát mầu
nhiệm của ý thơ. Bài thơ gồm ba phân khúc với những giai điệu phong phú cách
khác nhau, cho thấy tính cách tài hoa của bài thơ phổ nhạc Phạm Duy. Trọn phần
ba của trường ca dẫu có tính cách nhạc nhà thờ, giai điệu của nó lại giàu tính
cách trữ tình. Phong cách phổ nhạc ở đây đã phản ánh phong cách con người của
tác giả.
Bao trùm lên các kĩ thuật
vừa kể là nghệ thuật gây ấn tượng âm nhạc để diễn đạt chất thơ. Đây cũng chính
là một bí quyết thành công của thơ phổ nhạc Phạm Duy. Bài “Vần thơ sầu rụng”
phổ thơ lục bát của Lưu Trọng Lư đã gây ấn tượng mạnh về vòng quay của guồng
tơ, bài “Tiếng sáo thiên thai” phổ bài lục bát của Thế Lữ lại gây ấn tượng mạnh
về giai điệu và tiết điệu vui nhộn của những nàng tiên. Những bài thơ phổ nhạc
thành công chính là những bài lột tả được chất thơ và gây được ấn tượng sâu sắc
cho người nghe. Toàn bộ trường ca này đã triệt để khai thác nghệ thuật này. Ấn
tượng về phần một là sự êm ả, sự vắng lặng, và sự mầu nhiệm mà ba phân khúc
nhạc đã tạo nên. Ấn tượng về phần hai là sự vật vã, khắc khoải. Phần ba là sự
an hòa trong sự cứu rỗi. Làm sao bắt được nhạc đề của bài thơ phổ nhạc, hoàn
toàn thuộc về sự bén nhạy của tư duy nghệ thuật của người nhạc sĩ. Nếu những
bài thơ hay là những bài thơ có ‘thần’ thì những câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy
cũng là những giai điệu có cái ‘thần’ của chúng, tạo nên khí vị nhất quán khi
nghe riêng từng bài hay lúc nghe toàn thể chín phân khúc. Ma lực cuốn hút của
những phân khúc thơ phổ nhạc trong Trường
ca Hàn Mặc Tử là ở những đợt cảm xúc xô đẩy tới lui như những đợt sóng khác
nhau dào dạt đuổi bắt nhau không ngừng.
Trường ca
Hàn Mặc Tử là một kết
tinh những đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy: nó thể hiện tính cách
sáng tạo trong nghệ thuật phổ nhạc vào thơ, nó cho thấy những cảm thông sâu sắc
giữa hai tâm hồn nghệ sĩ với những hành trình nội tâm gần gũi. Nếu thơ phổ nhạc
thành công là một gạch nối đặc biệt giữa văn học và nghệ thuật âm nhạc, thì Trường ca Hàn Mặc Tử còn có ý nghĩa một phác họa chân dung một nhà
thơ bằng âm nhạc. Giá trị của tác phẩm như vậy là đa dạng. Hãy chỉ nhìn tác
phẩm trong địa hạt âm nhạc thôi, Trường
ca Hàn Mặc Tử cũng đã là một tác phẩm đồ sộ: giai điệu phong phú, hòa âm
tân kì. Tác phẩm để lại dư vị ngất ngây và những bâng khuâng không dứt về thân
phận người thi sĩ quá cố mà cũng là của mỗi chúng ta. Đạt được như thế không
thể không có một khí lực âm nhạc dữ dội.
Đoàn Xuân Kiên
Thế Kỷ 21, số 62 (th. 6/1994), tr. 65-73.
(1) Bài thơ “Tình quê” đã in trong tập thơ đầu của Hàn Mặc Tử, Gái Quê, 1936.
(2) Phạm Duy,” Về các bài thơ phổ nhạc - Về Trường Ca Hàn Mặc Tử”, Hợp Lưu số 15 (th.2/3.94), tr. 161-170
(3) Hàn Mặc Tử, “Quan niệm thơ” trong tập Chơi giưã mùa trăng. An Tiêm xb, 1972, tr 31-40.
(4) Vũ Khắc Khoan, Thằng Cuội ngồi
gốc cây đa (1948), màn kết.
(5) Mượn lời của Mộng Liên Đường chủ nhân khi đề tựa bản khắc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du.
(6) Xem: Đặng Tiến, “Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử”, Văn số 179 (1971) , Võ Long Tê, L’expérience poétique et l’itinéraire
spirituel de Hàn Mặc Tử và Quách Tấn, Đôi
nét về Hàn Mặc Tử. Paris: Quê Mẹ, 1988.
(7) Phạm Duy, Hồi Ký 3. CA:
Phạm Duy Cường Musical Pub., 1992, tr.300
(8) Xem bài thơ “Huyền Ảo” và “Cao Hứng”
(9) Phạm Duy, “Về các bài thơ phổ nhạc - Về Trường ca Hàn Mặc Tử“, bđd,
tr.164
(10) Phạm Duy, Hồi Ký 3, sđd,
tr. 307.
(11) Phạm Duy, Hồi Ký 3, sđd,
tr. 123.
No comments:
Post a Comment