Chàng Còn Đó Bên Đời Hiu Quạnh
Phố Tịnh
How irksome is this music to my heart?
When such strings jar, what hope of
harmony?
1.
“Một lời nói với
bông hoa trên đồi, một lời
nói đã phai.
Một điều giấu
kín trong tim con người là điều giấu
kín thôi”
Hãy giở bất cứ
bài hát nào trong hai tập nhạc mới
của chàng, ta sẽ
gặp những
lời tự
tình rất đỗi
thê lương như thế. “Một
chiều núi bỗng
mang thân cánh đồng, thì cùng giòng
nước khóc giùm” (Một
lần thoáng có). Người nghe
nhạc Trịnh
Công Sơn – vâng,
chàng chính là
Trịnh Công Sơn – bây giờ
liên tiếp bị
đẩy vào tâm trạng
ngỡ ngàng chới
với. Có phải
không đấy là những
lời nói của
kẻ tội đồ trong phòng kín? Có phải đấy
là những giọt
rượu nồng
cho kẻ lãng du lạnh
ngập hồn
xa xứ? Một
Trịnh Công Sơn xa lạ hẳn với
dĩ vãng trẻ trung năm bẩy
năm trước đây đã và đang lầm
lũi trên những nốt
nhạc buồn
trong hai tập ca khúc Khói trời
mênh mông và Tự tình khúc.
2.
Sáu năm trước, khi
TCS phổ biến
Những Tình
Khúc Trịnh Công Sơn là lúc
tên người nhạc
sĩ ấy gắn
liền với
loại ca khúc “da vàng”, loại quê hương và thân phận.
Quả có thế,
giữa khi đất
nước sục
sôi trong tình cảnh bi thương mà các nghệ sĩ khác đành bó bút, không hát nổi được
nỗi lòng người
dân thời loạn
lạc, nhạc
TCS phải được
xem là một hiện
tượng quý giá. Nhạc
của ông “là một
thứ rượu mạnh cho kẻ
tội đồ”,
nói theo kiểu George B. Shaw. Hình ảnh người
“mẹ ngồi
ru con nước mắt
nhục nhằn
xót xa đời mình” (Ca dao mẹ)
hay một người
già nằm co ro nghe tiếng
nổ và đứa
bé trần truồng
khóc tuổi thơ đi (Người già em
bé) quả thực
là những hình tượng
rất hiện
thực trong nghệ
thuật VN những
năm tháng đó. Cái tâm sự ngổn ngang của
cả một lớp thanh niên ngày ấy
in rất đậm
nét trong trên những tiếng nhạc
Blues của những
bài hát da đen như Nước mắt
cho quê hương, Cúi xuống thật
gần, Xin cho tôi, Phúc âm buồn [1]. Nhạc tình của
TCS bị chìm khuất
sau khuôn dáng ấy. Không ai có thì
giờ để nghe
chàng tâm sự: “Bây giờ
nhớ về tình
yêu cũng như hoài niệm về
một cổ
tích huyền hoặc.
Người ta không còn có thể nói với
nhau. Chỉ nói với
riêng mình, và tiếng nói được trả
về từ cõi chết làm trung gian thường
trực giữa
hai kẻ đối diện... Trong cõi-riêng-ta có một con chim bé nhỏ
đứng nhìn và hót hoài điệp khúc buồn
bã đó... Chỉ có trong tình yêu ta mới bắt
gặp được
cái chết của
chính mình...”[2] Những bản
tình ca của TCS đẹp
nhưng buồn lắm.
Tình buồn ướt sũng
trong những ca khúc viết
ở âm thể
thứ (mode mineur). Những
ca khúc ấy kể
lể một cổ tích tình yêu của
ai đó, nghe rền rĩ như tiếng kinh cầu
trong nhà nguyện thâm u: “và tiếng
hát về ru mình trong giấc ngủ vừa. Rồi từ
đó loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền. Để người
về hát đêm hồng.
Địa đàng còn in bước
chân bước quên”. (Dấu
chân địa đàng). Tình yêu, ồ,
chỉ là lời
vô vọng. Con người
chỉ là những
con thiêu thân bay mãi vào ảo tưởng tình yêu thôi : “tôi ru em ngủ một sớm mùa xuân, em hôn một nụ
hồng hỏi
thăm về giọt
nắng. Tôi ru em ngủ
hạ cũng vừa
sang, em hôn lên tay mình để chua
xót tình trần” (Tôi ru em ngủ).
Tình yêu chỉ là một dĩ vãng để
hoài tưởng, để
trông vời mà thôi. Như cánh vạc bay như cỏ xót xa đưa. Như những hình
tượng nào héo nhất,
buồn nhất.
Thế cho nên, chúng ta cũng chỉ gặp một TCS độc
thoại trong hai tập
ca khúc khác ra đời năm 1970: Như cánh vạc bay và Cỏ
xót xa đưa. Vẫn lừng
lững trong đó một
con hồng nhạn
bay tìm chỗ đậu. “Xin
đứng yên trong chiều,
trên môi thở khói quạnh
hiu. Xin đứng yên trong chiều,
hong tình cho nắng khô mau. Về đây thân xác hư hao. Đêm đêm nằm
nghe lá than van chút niềm đau ngọt ngào” (Tình xót xa vừa). Trong trái tim giọt máu vừa
khô,chiều cũng mù loà với
cánh dơi bay loạn. Đời
người vẫn
mịt mùng như tình treo trên chiếc
đinh không.
Nét nhạc TCS
không khi nào bị lẫn cả,
luôn luôn có phong thái riêng biệt, càng
ngày càng sắc hơn, riêng tư đến độ lạc loài.
Tình của chàng không còn ướt
đẫm vẻ
buồn sướt
mướt mà đã lì lợm,
không muốn than van, vẻ
buồn mà Cung Tiến
gọi là “buồn
majeur” không phải là một bước
đổi thay tình cờ
trong nhac TCS đâu. Nó chỉ là một biểu
hiện tất
yếu cuả
tâm sự một kẻ lạc lõng
không có một bếp
lửa mà trở
về, chẳng
một đốm
lửa mà hong con tim ướt:
“Đêm ta nằm bóng tối
che ngang. Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm gọi
thì thầm gọi
thì thầm. Đêm nghe trời
như hú như than, ta nghe
đời như có như không, còn lại
mình đời bềnh
bồng, đời
buồn tênh” (Còn có bao ngày). Những bài hát tiêu biểu
nhất của
TCS trong hai tập ca khúc này đều là những
ca khúc nhạt nhoà sầu thương, đượm vẻ dửng dưng tỉnh táo (hay mỏi
mệt?) của
một kẻ
tuyệt vọng.
Hãy nghe lại một
lần những
ca khúc ấy: Ru ta ngậm
ngùi, Như cánh vạc bay, Rừng
xưa đã khép,
Tình xót xa vừa, Rồi
như đá ngây ngô.
(Như cánh vạc bay) Còn có bao ngày, nghe những tàn phai, Vẫn
nhớ cuộc
cuộc đời,
Cỏ xót xa đưa (Cỏ xót xa
đưa).
Những ca
khúc ấy có chung một
hành âm lơ lửng vật
vờ của nhịp điệu
3/4 hay 6/8. Tiết điệu đều
đặn ấy vẫn là bản
sắc của
TCS chứ gì, lối
chuyển cung bất
ngờ giữa
bài hát cũng là bản sắc nhạc
của chàng, đồng
ý, nhưng ở đây nó tố
cáo một TCS đã chín, đã già (người nhạc
sĩ già giặn và người
tình già nua). Điểm đáng để ý nữa
là nhạc TCS từ
đây đã manh nha xu hướng thoát bỏ chủ âm để
tiến đến
nhạc atonalité. Điệp
khúc của bài Nghe những
tàn phai hay những bài Rừng xưa đã khép, Rồi
như đá ngây ngô là những thoáng hiện
nhưng còn rất e dè.
3.
Tâm sự một kẻ
lạc lõng? Vẻ
dửng dưng tỉnh táo của một
kẻ tuyệt
vọng? Con chim muộn
phiền hát mãi điệu
da đen như tiếng kèn đồng
giữa đồi
núi đêm trùng của Prewitt [3], (ôi chao kẻ lạc loài
Montgomery Clift vẫn quấy nhiễu
lòng ta hoài không nguôi. Tant qu’il y aura des hommes. Tant qu’il y aura des
hommes?) Hay nói như chàng: “Đời vẽ tôi tên mục
đồng, rồi
vẽ thêm con ngựa
hồng, từ
đó lên đường phiêu linh”. (Chỉ
có ta trong cuộc đời)
Con ngựa hồng
đã lên đường bằng
sự ra đời
của hai tập
ca khúc mới: Khói trời
mênh mông và Tự tình khúc (Nhân Bản
– 1972).
Trong một lần phỏng
vấn trên Đài phát thanh quân đội (14-3-1973), TCS trả lời cô Mai
Hân đại khái thế
này: “trong nhạc của
tôi thường có hai tình tự:
một tình tự
giữa những
người đồng
bào, và tình tự giữa
hai người. Riêng tình tự
giữa hai người
thì tôi nhận thấy
nó rất nhạt
mờ” người
nghe có cảm tưởng
người nhạc
sĩ hắt hủi,
ruồng rẫy
những tình khúc của
mình. (Nhưng ông TCS ơi, ông đẻ chúng ra làm gì để
bây giờ ông làm tình làm tội?
Đau lòng lắm lắm!).
Có nghe lại những
khúc hát mới của
ông mới hiểu
ý tình của người
nhạc sĩ hà tiện
lời nói kia.
Tình yêu là món đồ
cổ nhất
trong các món cổ vật của
loài người. Yêu có nhiều
cách thế, yêu thầm,
yêu đương, yêu ra
rít. Điều kiện
cần và đủ
của tình yêu là yêu nhau, bởi vì chỉ
một kẻ
yêu thôi thì chỉ là tình tuyệt vọng,
tình yêu một chiều
(tình yêu mà ông Y Vân gọi là
Em-đi trước-anh-sau đó). Xin phép được làm rườm
tai những kẻ
yêu nhau để nhắc
lại câu nói nghìn vàng: “Il faut deux pour
nommer le ciel est beau.” (Lacroix). Những
tình khúc của người
yêu nhau đều no đầy
hạnh phúc, ấy
chẳng phải
là điều lạ
lùng. Người ta không thấy
ca khúc nào của Phạm
Duy đượm vẻ
bi đát của một
người tình tuyệt
vọng. Nét buồn
trong nhạc Phạm
Duy chỉ là những
xúc động tạm
thời của
người tình lạc
quan. Chiều duyên dáng hiền
lành của nhạc
tình Phạm Duy cắt
nghĩa tại sao những
cặp tình nhân đang yêu nhau rất ham chuộng,
họ tưởng mình
đang “Dìu nhau sang bên kia thế giới, Dìu nhau nơi quê hương mãi mãi, Dắt dìu về
tới xa vời
đời đời,
dìu nhau đưa nhau vào
nghìn thu”
(Thương tình ca). Có khi
họ buồn
đắm khi tưởng
tượng mình đã nghìn trùng xa cách nhưng rồi vẫn
tìm nhau, và sẽ “gặp
nhau trong nhân tình đầy bác
ái, ơi người, gặp
nhau trong kinh cầu một hồi
chuông”, (Phạm Duy – Tìm nhau).
Sẽ không
thấy được
bầu không khí nồng
ấm kia trong nhạc
TCS bây giờ. Người
nghe chỉ gặp ở đó một
người tình khắc
khoải, khắc
khổ, thốn
tâm can vô cùng. Người tình đi giữa phố
lạ, tưởng
chừng chung quanh là đồng
vắng, chỉ
có tiếng gà trưa là dấu hiệu độc
nhất của
sự sống. Một mình tôi bước
hoài bước hoài.
Con tim thều thào không nguôi,
không nguôi, giữa phố đông người
đang mộng mị
trong giấc ngủ
trưa, tôi thấy “đời
ta có khi là lá cỏ, ngồi hát ca rất
tự do” (Đêm thấy ta là thác đổ). Em thấy đó, một kẻ cô độc giữa đời mình; hắn đi bên bờ
nấm mộ vàng, căn phần dành cho riêng những người ở dọc đường bơ vơ, “những khi
chiều tới cần có một tiếng cười để ngậm ngùi theo lá bay. Rồi nước cuốn trôi. Rồi
nước cuốn trôi” (Để gió cuốn đi). Dường như tôi gặp đâu đây một người lãng trí,
rất ngây thơ trong vẻ mệt mỏi vì hệ luỵ cuộc đời đã đè quỵ trên vai. Hắn la hét
một lần cuối: “hãy ca cho tôi nghe một bài hát mới”. Rồi im lặng triền miên. Vô
ngôn. Ôi, Nietzsche đã chết rồi. Bồi hồi
đối ảnh độc vô ngữ. Bạch phát sở hành thuỳ ngã khâm” (Nguyễn Du -La phù giang thuỷ các độc toạ). Nguyễn Du cũng đã chết
rồi, làm sao nghe được lời tự tình rất đỗi ngậm ngùi kia?
Trong nhạc TSC bây giờ chỉ
có một người trơ trụi, đứng lóng cóng giữa đời xôn xao. Hắn mở toác hoác con
tim cho mọi người. ”Tôi như trẻ nhỏ tìm nơi nương tựa mà sao vẫn cứ lạc loài...
Tôi như là người lạc trong đô thị một hôm đi về biển khơi...(Tự tình khúc) Đã
bao lần, tôi gửi lòng tin của mình vào tình yêu, tôi chờ đợi mãi một tiếng cười,
một đoá hồng trong lãng quên. Nhưng bây giờ thì chẳng còn gì, tôi đã thua đậm một
canh bạc một đời người (Vì em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia”
(Đêm thấy ta là thác đổ). Đời ta đã tắt lửa lòng rồi sao, những mộng cao vời ấy)
Những đêm; những đêm xuân trăng không còn mọc, những mùa thu mua riêng tình sầu.
L’homme tragique que se découvre soudian sans amour, sans valeur et sans vie;
voilà le bilan tragique, et voilà notre surprise éternelle” (Clément Rosset, La philosophie tragique. P.U.F. p. 22).
Chàng chỉ còn mỗi một món hành lí còm cõi: trí nhớ. Ngày xưa, ngày xưa khi tiếng cười còn xanh, khi
mắt chưa vàng màu bội bạc. Ôi quê xưa, nhánh quê xưa mà tôi vẫn nghe hoài một
tiếng gọi về. Có ai chỉ giùm tôi con đường tình một thời xa xăm? Có ai không?
Ngày nào, ngày nào xưa? “Lòng ta có khi tựa như vắng ai. Nhiều khi đã vui cười,
nhiều khi đứng riêng ngoài. Nhiều đêm muốn đi về con phố xa. Nhiều khi muốn
quay về nằm yên dưới mái nhà”. (Lời thiên thu gọi). Ngày đó con sông là điểm tựa
cho tình ta, sông là chứng tích cho cuộc tình rất đẹp của đời mình. Trời rất
xanh và tiếng hát rất nồng. Bởi vì có ta yêu nhau. Thế mà, cuộc tình cũng phôi
pha, “ nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà, từ những phố kia tôi về...Nhiều đêm thấy
ta là thác đổ, tỉnh ra có khi còn nghe”(Đêm thấy ta là thác đổ) Tình yêu?
Không, chỉ có một giọt rượu tàn vừa bốc hơi. Không, chỉ còn đôi cánh trắng tít
mờ đằng xa kia. “Từ đó trong vườn khuya, ôi áo em xưa là một chút mây phù du,
đã thoáng qua đời ta” (Đoá hoa vô thường). Em ở đâu rồi? Hãy đưa tay cho anh vịn
tỉnh đêm tàn, sống dậy bến tình quên. Ôi chao, con tim oan khiên, khối tình tội
nghiệp. Đời tôi chẳng còn điều gì mới lạ cả, còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi,
(ôi tâm sự buồn của những Kiều nương giữa đời đoạn trường). Tôi đã sống rất ơ hờ,
lòng tôi có đôi lần khép cửa. Trong tôi ngổn ngang những vực sâu, những chán
chường; trong tôi có một giải đất mới, sa mạc nối dài. Như Cain, tôi cũng là một
kẻ chạy trốn và kẻ lang bạt trên đời này(Genesis 4,12; a fugitive and a
vagabond shalt thou be in the earth). Những tiếng hát của TCS hôm nay là những
lời kể lể về tâm sự của người tuyệt vọng không còn thấy liên hệ giữa mình và
người xung quanh. Kẻ tuyệt vọng là kẻ mất quê nhà, lưu vong giữa lòng ốc đảo
trơ trụi. All lost in the wonderland, a
strange in Paradise. Một ca khúc nước ngoài cũng đã nói đến tâm sự ấy.
Nhưng ở TCS, khuôn mặt của những kẻ lạ mặt bị soi chiếu tàn nhẫn không dấu diếm.
Có thể gọi nhạc TCS là thứ nhạc Dionysos không?. “Sous le charm the Dionysos
non seulement le lien se renoue d’homme à homme, mais même la nature qui nous
est devenue étrangère hostile ou asservie, fête sa réconciliation avec l’homme,
son fils prod gue”. (Nietzsche, La
naissance de la tragédie. coll. Idées, p.25-26). Cuộc sống hôm nay tả tơi
dường ấy, quanh đây chỉ thấy bóng căm thù, đất đá, sa mạc và giông bão. Tiếng hát ấy cất lên, có phải là tiếng gọi mời hay
một dây liên lạc mới? Có phải tiếng hát lôi kéo đứa con hoang bị ruồng rẫy trở
về với mẹ? Nhưng than ôi, chính tiếng hát ấy, chính tiếng hát ấy hôm nay cũng
là một đứa con hoang đàng, thì biết ai hát và ai nghe? Có điều chắc chắn nhất
là nhạc TCS bây giờ phơi bày cho người nghe thấy hình ảnh của kẻ, của những kẻ
xa lạ, đi hoang trên đời sống, ôm con tim lạnh lẽo vì đơn côi. Nhạc đó là tấm mồ
lớn của chúng ta.
Tình yêu làm sao có thể tồn
tại được trong nấm mồ hoang liêu như vậy? Người tình trong nhạc TCS đã bao
nhiêu lần gió rét, đã không bao giờ nguôi ngoai.
Ngôn ngữ nhạc TCS, do vậy,đã
lạnh băng như chưa bao giờ lạnh đến
thế. Lời nhạc của ông bây giờ chỉ chụp bắt được những hình ảnh lạnh như tình
trong nhạc của ông. Một bản thống kê sơ sài những hình ảnh trong lời hát TCS
cho thấy rõ hai kiến trúc chính: một loại diễn tả ý niệm vắng lạnh (con phố lạ, con đường hiu quạnh, cơn gió vây trùng, lòng
vẫn ơ hờ, khói trời mênh mông, nước mắt cỏ lá buồn tênh, ngọn đèn từng đêm vơi
cạn, sa mạc nối dài...), một loại cho ta cảm thức về sự phôi pha, mất mát (nụ
cười mong manh trong gió, tim héo, vết thương sâu, gió bay qua chân cầu, dòng
sông chở hồn thương đau, em về biển xa, môi son biếng lười, héo xanh...). Ngôn
ngữ lời ca của TCS thiếu thốn quá nhiều hơi ấm. Rượu ư? Không phải để sưởi ấm
lòng ta đâu, nó dìu ông đến cái chết đó, “Đường nào dìu tôi đi đến cơn say. Một ngày nằm mơ tôi thấy tôi qua đời” (Bên đời hiu quạnh).
Cái lạnh không chỉ nằm ở lời
hát mà nó còn nằm lồ lộ ở tiết tấu từng bài.Thường thì hành âm của những ca
khúc TCS đều cùng một khuôn mẫu: những nốt dài ngắn sóng đôi nhau tạo thành vẻ
đều đặn rền rền như tiếng mõ kinh. Bài Khói
trời mênh mông là một thí dụ điển hình: Ta về nơi đây phố xưa dấu đạn, con đường bên sông cỏ lá buồn tênh... Những nốt
có lời in nghiêng là những nốt dài và mạnh. Quãng cách giữa nốt trước và nốt
sau luôn luôn gần gũi nhau, chỉ là những quãng hai, quãng ba hay quãng bốn là
nhiều, ít thấy những nốt nhạc bùng vỡ nổi loạn trong các ca khúc TCS. Hình như
tiếng nhạc chỉ gượng nhẹ, e làm kinh động cuộc đời chăng? Hay là vì cõi lòng đã
lịm từ bao lâu, không còn muốn gì nữa, đã mỏi mệt lắm rồi?
Chưa bao giờ ta gặp những
bài hát ma quái, lạnh lẽo đến thế. Cách điệu monotone của nhạc sĩ TCS bấy lâu
nay phải được cắt nghĩa một phần dựa vào tâm sự não nùng của người soạn nhạc,
chính dáng vẻ lờ đờ của dòng nhạc TCS đã phân biệt khuôn mặt ông với những người
trẻ tuổi khác. Hãy so sánh với trường hợp Lê Uyên Phương. Nhạc của Phương cũng
thể hiện chất tragique de l’amour. Tình nhân trong nhạc LUP tâm sự với nhau,
yêu vội vàng, yêu ngấu nghiến tình yêu của họ qua tiếng nhạc xôn xao. Tâm sự với
nhau là vì hạnh phúc của LUP có thật, nó tràn trề trong tiết điệu bài ca, trong
lời ca. Khi ngợi ca những ngày tháng vui vầy, nét nhạc nhún nhẩy hân hoan, sung
mãn, đam mê (Một ngày vui mùa đông).
Vẻ bi đát trong nhạc LUP nằm ở chỗ: tình nhân biết rõ điểm cuối của một hạnh
phúc, và nhân danh hạnh phúc đã có,
hát cho hạnh phúc ngày mai sẽ mất.
Bài hát điển hình cho tiếng hát ấy là Vũng
lầy của chúng ta: hành âm nhanh ở đoạn Sol thứ, chuyển sang rền rĩ ở đoạn
sol trưởng, quấn quít nhau. Nhưng buôn vui vẫn phân biệt. Bài hát Đêm chợ phiên mùa đông không có nét nhạc
buồn bã như Vũng lầy của chúng ta, Còn nắng
trên đồi. Ngôn ngữ nhạc LUP dù sao vẫn là ngôn ngữ của những người hạnh
phúc, như trường hợp Phạm Duy vậy. Ở TCS, vui buồn cùng trùng lên nhau. Nói
đúng hơn, tiếng đời trên nhạc TCS chỉ có ý nghĩa một hồi chuông báo tử. Rất đỗi
ngậm ngùi. Tiếng chuông lắng mau, ta nghe, nhưng cái chết đuổi ta với tốc độ nước
rút; chuông rền, ta nghe như khắc khoải đợi chờ phút ấy. Nhịp độ những ca khúc
TCS bây giờ cũng thế, quanh quẩn chỉ có ba loại: rền rền chậm rãi, trung bình
và nhanh.
Những bài có nhạc điệu chậm
rãi như Lời ở phố về, Yêu dấu tan theo,
Sẽ còn ai chẳng hạn, điệu hát lê thê như không muốn dừng lại ở nốt nào. Ta
tưởng chừng như những nốt nhạc cũng biết ngái ngủ; một chuỗi quãng hai nép vào
nhau lên lên xuống xuống với nhịp điệu rền rền. Buồn và nản. Con ngựa già mỏi mệt
của kiếp sống đó. Vận tốc những bài Em
đi trong chiều, Xanh lòng tàn phai, Nguyệt ca, Tự tình khúc không chậm
không nhanh; chúng chỉ lãng đãng như dáng hững hờ của người khách lạ, chúng lạnh
băng như không chút quyến luyến người nghe, không can hệ với cuộc đời của chúng.
Nhịp xe lăn đều lănđều, nhịp đồng hồ gõ hoài không ngơi. Đấy là những ấn tượng
rõ ràng của người nghe khi thưởng thức những ca khúc có nhịp điệu bình thản kia.
Trong hai tập nhạc còn có loại
thứ ba vận tốc nhanh hơn, nghe như tiếng mưa gấp. Đấy là những bài Khói trời mênh mông, Để gió cuốn đi, Bên đời
hiu quạnh, Đoá hoa vô thường. Rằng hay thì thật là hay, Nghe ra ngậm đắng
nuốt cay thế nào! Nhạc điệu ma quái không thể tưởng tượng. Mỗi lần nghe bài Bên
đời hiu quạnh, chúng ta lại thấy sừng sững nỗi khổ đau ngất ngất như giông như
gió loạn đời mình. Ấn tượng ấy phải chăng là nhờ ma lực của nhạc điệu cuốn gấp
của bài hát?Trường hợp Đoá hoa vô thường là một điển hình cho nhạc TCS bây giờ:
nhạc điệu biến hoá từ chậm sang nhanh, rồi thanh thản. Tiết tấu bài ca cũng
thay đổi tuỳ đoạn. Chúng tôi nói TCS già giặn chính là muốn nhấn mạnh đến giá
trị chính tả của những bài hát như vậy: những lúc chuyển cung thần tình, đem dấu
hoá bất thường vào câu nhạc rất đắc địa.
Có cần phải nói thêm điểm
này: TCS dạo này rất sính dùng nhịp kép? Điều ấy có lẽ phải giải thích từ nét
nhạc của ông bây giờ phức tạp hơn, nên những nhịp kép như vậy mới chính tả được
ý nhạc của người viết.
4.
Ngày nay, TCS không còn là một hiện tượng của nhạc phổ thông Việt Nam như năm bảy năm trước. Hôm nay
là thời của nhạc trẻ. Nhạc trẻ là gì
thế? Đến hôm nay dường như chưa ai xác định thế nào là nhạc trẻ ở Việt Nam này![4]
Có điều chắc chắn nhạc TCS không được hân hạnh xếp hàng với nhạc trẻ. Nhưng nói
thế không có nghĩa là TCS không còn người nghe. Trái lại, phải nói ngay là người
nghe nhạc TCS bây giờ là một số nhỏ, gạn lọc. Đấy là quy luật khắc nghiệt nhưng
đúng với sinh hoạt văn nghệ: văn nghệ càng nghiêng về phẩm, càng xa cách quần
chúng. Nhạc TCS bây giờ nghiêng về phẩm? Nghe hơi kì khôi, làm như trước đây
TCS không có phẩm. Nhưng quả thật, nhạc TCS ngày nay đã có một cá tính đặc thù
quá, nó không còn dễ phổ cập với quần chúng hơn là trước kia. Không khí nhạc của ông mang một vẻ u tịch của một
thánh đường, lạnh lùng và thách đố người nghe. Nội dung của nó cũng tự viên
thành một bản sắc: tâm sự của một người tuyệt vọng, hát như chưa biết buồn phiền
chi mà thực là đã chết trong tâm hồn từ bao giờ rồi. Có lẽ, phải mượn một nhân
vật của Thomas Wolfe để nói về tình cảnh của những đứa con lạc loài của người Mẹ
- Đời-Sống: “Lost, lost, forever... Naked and alone we came into exile. In her
dark womb, we did not know our mother’s face; from the prison of her flesh,
have we come into the unspeakable and incommunicable prison of this earth”...
Bơ vơ, bơ vơ suốt đời. Chúng ta bị đầy đoạ một cách tàn nhẫn và trơ trọi. Trong
đáy vực, ta nào biết được vóc dáng mẹ hiền; trong ngục tù của mẹ, ta bị đẩy vào
trần gian lưu đầy không còn truyền đạt và cảm thông gì nữa) (Thomas Wolfe, The Return of the Prodigal).
Còn biết nói gì nữa? Trong
khi chờ giây phút vô ngôn mà Nietzsche và Nguyễn Du đã ngộ, tôi vẫn hát để chia
nhau chút nổi trôi của phận người, hát rằng “Đôi khi một người dường như chờ đợi
thật ra đang ngồi thảnh thơi... Tôi như là người ngồi trong đêm dài nhìn tôi
đang quá ngậm ngùi... Tôi như nụ cười nở trên môi người phòng khi nhân loại biếng
lười... Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn, lửa lên thắp một niềm riêng. Tôi như
nụ hồng nhiều khi ưu phiền chờ tôi rã cánh một lần”. (Tự tình khúc). Ơi cuộc đời
thân mến, từ nay trong hồn tôi tiếng chuông não nề đã rền vang kiếp người mê sảng.
Trên chuyến xe về chốn phôi phai, có ai nghe cùng tôi tiếng chuông gọi hồn? For
whom the bell tolls?
Phố Tịnh
X. 1973
(giai phẩm Khai Nguyên, Vĩnh Long, 1973)
No comments:
Post a Comment