Sơ lược về phương pháp
Học
Kĩ Đọc Đúng
Đoàn
Xuân Kiên
1
Bộ sách Học Kĩ Đọc Đúng (1) là bộ sách giáo khoa dạy tiếng Việt dành cho các em học sinh bắt đầu học đọc.
Điểm khởi
hành của phương pháp Học Kĩ Đọc Đúng là những suy nghĩ xung quanh câu hỏi: làm thế nào để có thể dạy trẻ
mới học tiếng Việt ở giai đoạn đầu tiên
cho được hiệu quả nhanh chóng? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xác định
lại hai đối tượng dạy học: một là, âm tiết tiếng Việt được cấu thành như thế
nào; hai là, dạy trẻ thực tập các thao tác phân tích và tập kết hợp âm tiết như
thế nào.
Duyệt lại những hệ thống mô tả ngữ
âm tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy còn có nhiều vấn đề cũng cần phải giải
quyết, trước khi có thể bắt tay vào việc biên soạn tài liệu giảng dạy tiếng
Việt theo phương pháp ‘học kĩ đọc đúng’. Trước hết là vấn đề đơn vị cơ bản của tiếng
Việt: âm tiết. Bài học vần tất yếu phải dựa trên cấu trúc âm tiết của một từ
đơn. Một âm tiết tiếng Việt thường được phân tích theo cấu trúc tầng bậc như
sau:
Hình1 : Sơ đồ âm tiết ba tầng
Sau khi kiểm nghiệm lại các phân
tích cấu trúc âm tiết, chúng tôi đi đến sơ đồ cấu trúc hai tầng như sau:
Hình 2 : sơ
đồ cấu trúc âm tiết hai tầng
Hai mô hình cấu trúc âm tiết trên
khác nhau ở chỗ hơn kém nhau một lớp cấu tạo: sơ đồ (1) có thêm một tầng, vì có
thành phần ‘vần’. Các sách ngữ âm tiếng Việt không giải thích thoả đáng về chức
năng âm vị học của ‘vần’ trong âm tiết, mà chỉ lập luận theo âm vận học Trung
Hoa. Chúng tôi cho rằng thành phần gọi là "vần" trong âm tiết tiếng
Việt không nhất thiết là một bậc kết hợp ngữ âm cuả cấu trúc âm tiết. Do vậy, chúng tôi dùng sơ đồ
(2) về cấu trúc âm tiết để soạn phương pháp ‘học kĩ đọc đúng’, với sơ đồ cấu
trúc âm tiết hình khung chữ nhật gồm bốn ô, dùng cho mọi bài học:
Hình
3 : khung cấu trúc âm tiết tiếng Việt
2
Một vấn đề
cũng gây tranh luận khá lâu dài: phần âm chính (còn gọi là hạt nhân ) của mỗi
âm tiết. Trước nay, trong các sách ngữ âm tiếng Việt có nhiều khác biệt về quan
niệm thế nào là nguyên âm tiếng Việt. Chúng tôi phải làm lại công việc xác định
lại các nguyên âm tiếng Việt mà bao lâu nay vẫn còn nhiều giải thuyết nhưng
không thật xác đáng, và chỉ làm mờ tính hệ thống của các nguyên âm tiếng Việt.
Nguyên âm tiếng Việt thật ra không đi ra ngoài hệ thống của nguyên âm. Chúng có
thể là một âm đơn, một âm kép với những nét đặc trưng âm vị học rõ rệt: trượt,
tăng dần về cường độ. Chúng đều có giá trị âm vị học ngang nhau về trường độ,
về cấu tạo, và chức năng của chúng là làm thành phần cốt lõi của âm tiết. Nhờ
nhận ra tính hệ thống của các nguyên âm trượt-tăng dần, vấn đề cấu trúc âm tiết
tiếng Việt trở nên đơn giản và nhất quán; và tất nhiên chỉ giúp cho việc giảng
dạy thêm xác đáng.
Xác định được thành phần âm chính
cuả cấu trúc âm tiết, và xác định được đặc tính âm vị học cuả loại âm vị nguyên
âm đã là yếu tố quyết định cho việc duyệt xét lại cấu trúc âm tiết tiếng Việt
được sử dụng trong toàn bộ giáo trình Học
Kĩ Đọc Đúng này.
3
Có một khái
niệm cơ bản khác nữa về âm tiết tiếng Việt thường vẫn bị lẫn lộn trong các sách
giáo khoa về học vần. Mỗi âm tiết đều có hai mặt biểu hiện: khi phát âm thì âm
tiết được cấu tạo bằng bốn âm vị
(thanh điệu cũng là một âm vị); nhưng khi viết thì lại dùng các kết hợp chữ cái
và 'dấu' thanh để thành bốn đồ vị tương
ứng với các âm vị. Ví dụ: từ nghiêng
nghiêng gồm mười bốn chữ cái và hai thanh điệu; nhưng về mặt âm vị thì mỗi
tiếng chỉ có bốn âm vị và được thể hiện bằng bốn đồ vị như sau:
nghiêng
|
Û /ngh/ - /iê/ - /ng/ - / - /
|
Û / ŋ
/ - /ie/ -/ ŋ / - / 1 /
|
Từ
|
Phân tích đồ vị
|
Phân tích âm vị
|
Khái niệm đồ vị thật ra không có gì mới. Bloomfield (1933:85-89) đã nhận ra
sự bất tương ứng giữa hệ thống chữ cái và âm vị, và đã thấy vai trò của hệ
thống phiên âm quốc tế như là giải pháp cho những bất tương ứng giữa âm vị và
chữ viết. Tuy nhiên, đối với tiếng Việt thì sự thể có khác hơn, vì hệ thống chữ
viết hiện nay tương đối rất sát hợp với phát âm; hiện tượng sai chạy giữa âm vị
và chữ viết không nhiều, nên không phải dùng đến hệ thống phiên âm quốc tế.
Đưa khái niệm đồ vị vào dạy đọc ở bước đầu tiên là việc có ý nghiã cả về mặt ngữ
học lẫn sư phạm. Về ngữ âm, đồ vị sẽ giúp học viên sớm nhận ra tính hệ thống
của những đồ vị dùng để ghi chép các từ, nghĩa là sự tương ứng một đối một giữa
các âm vị và chữ viết. Học sinh sẽ sớm ghi nhận hệ thống đồ vị ngay từ giai đoạn
đầu của việc học đọc. Làm như thế còn là một bước tiến về mặt phương pháp sư
phạm, vì khi học đọc, trẻ liên kết âm vị và đồ vị, chứ không phải với những con
chữ rời (Goswami & Bryant, 1990:26). Có thể nói là chữ viết vẫn là và phải
là những cỗ xe chuyên chở các từ, chỉ khác với các phương pháp biên soạn trước
đây là chúng tôi quy những chữ viết thành các tổ hợp trong lúc dạy đọc để giúp
học sinh ghi nhận từ sớm tính cách hệ thống của đồ vị.
4
Mục đích tổng quát của phương
pháp Học Kĩ Đọc Đúng là:
1- Kích thích các em quan tâm tới chữ viết. Chỉ khi nào đánh động được
mặt tình cảm của các em thì việc học đọc mới làm cho các em muốn tiếp nhận các
giá trị văn hoá xã hội trong thế giới chung quanh các em. Quan tâm là một bảo
đảm chẳng những giúp các em tiếp thu được mặt kĩ thuật nghĩa là có thể đọc được
mà còn giúp các em sẽ đọc những gì các em thấy cần thiết và bổ ích cho các em.
2- Các em phải có thể tự đọc được những bài văn đơn giản nằm
trong vốn ngôn ngữ của các em. Gọi là đọc
được khi nào các em có thể đọc đúng, trôi chảy và phát âm các thanh chính
xác.
3- Các em phải
hiểu và tiếp thu được nội dung của bản văn. Các em có thể tự giải quyết được
những khó khăn đơn giản các em gặp phải khi đọc. Các em cũng phải bắt đầu tập
phát triển tinh thần phê phán đối với
bản văn.
5
Nhưng để đạt
được các mục đích trên thì phải có được một số điều kiện sau:
* Các em phải có một số vốn từ nói
tương đối trước khi học đọc. Nói cách khác các em phải hiểu được một cách
tương đối ngôn ngữ nói của ngôn ngữ mà các em sẽ học.
* Các em phải học phân tích các từ nói ra thành các âm. Hệ thống chữ
viết của chúng ta là hệ thống ghi âm. Vì vậy để có thể hiểu rõ hệ thống đánh
vần của chúng ta các em phải học phân chia từ ra thành âm vị.
* Các em phải có thể phân biệt và
nhận ra được các chữ cái trong các dạng vẽ khác nhau. Các em chỉ cần học
biết các đặc tính của một chữ cái để nhờ đó các em có thể phân biệt được chữ
cái này với chữ cái kia. Nói cách khác các em phải học được các đặc tính khu
biệt của từng chữ cái. Những sự khác biệt về kiểu chữ không phải là cái chính.
Ngoài ra các em phải học phát âm các chữ cái đúng theo như âm vị mà các chữ cái
này đại diện.
* Phải biết hướng đọc và viết từ trái
qua phải. Phải biết là âm vị các em nghe hay nhìn thấy đầu tiên là bắt đầu
từ trái.
* Các em phải biết được mối liên
hệ giữa đồ vị và âm vị. Vì vậy phải học các chữ cái trong dạng đồ vị và
biết kết hợp được đồ vị với âm vị.
* Các em phải học biết giải mã chữ
viết. Trong việc giải mã này các em cũng phải học biết ý nghĩa của từ và
mối liên hệ của nó với câu.
* Trong việc chuyển chữ viết thành từ nói, các em phải hiểu được ý nghĩa
của toàn bản văn. Vì vậy các em phải làm sao chuyển sang được giai đoạn đọc mà
ít phải quan tâm tới việc phát âm. Nói cách khác việc đọc đã có thể tự động hoá được.
* Các em phải học suy nghĩ về những gì
các em đã đọc và đối chiếu với những gì các em đã biết và trải qua. Do đó việc
tập cho các em có tinh thần phê phán nội
dung bản văn là cần thiết để giúp các em phát triển.
6
Phương pháp dạy học đọc như thế nào có thể giúp việc dạy và
học đọc được hiệu quả?
Giáo học pháp trên thế giới đã đầu
tư nhiều về mặt lí luận dạy học trong kỉ nguyên phát triển. Đối với lí luận dạy
đọc, những thể nghiệm phương pháp dạy đọc tại Hoa Kì và Hoà Lan đã hình thành
một xu hướng mới trong ngành giáo dục lưá tuổi mầm non. Phương pháp 'dạy đọc
ban đầu' đòi hỏi một công phu nhiều mặt: tâm lí sư phạm, giáo học pháp, và tâm
lí ngôn ngữ.
Đặc điểm đầu tiên cuả phương pháp
dạy đọc trong Học Kĩ Đọc Đúng là sự ý
thức về cơ cấu. Trước hết, ngôn ngữ
là một cấu trúc. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt là một cấu trúc nhiều cấp độ, vì
vậy học một từ đơn là học một âm tiết trong một mối tương quan giưã âm tiết đó
trong một tổng thể.
Chương trình dạy đọc cũng là một cấu
trúc, trong đó các bài học trong một trật tự được chương trình hoá. Đối tượng
học tập (học sinh) cũng là một cấu trúc, trong đó các yếu tố phát triển
tâm-sinh lí và các mối quan hệ xã hội cũng cần phải được quan tâm để giúp cho
việc học đọc đạt được mục đích là góp phần làm thăng tiến sự phát triển cá nhân
trong quá trình học tập. Phương pháp dạy đọc theo cơ cấu không tách rời cái
tổng thể là phương pháp giáo dục toàn diện, trong đó ngôn ngữ chỉ là một thành
phần mà thôi.
Ý thức về cấu trúc còn thể hiện ở cả
chính phương pháp dạy đọc nưã. Thật thế, nhóm biên soạn ý thức rõ rằng một
phương pháp dạy đọc cho trẻ mới bắt đầu vào ghế nhà trường, tất không phải là
giản dị. Phương pháp cấu trúc trong dạy đọc không loại trừ một biện pháp nào có
giá trị là giúp trẻ học đọc một cách nhanh chóng, có hiệu suất cao, và góp phần
phát triển cá nhân. Có thể thấy dáng dấp cuả các 'phương pháp' trong lịch sử
dạy đọc trong phương pháp cấu trúc mà tập thể biên soạn đang theo đuổi. Cốt lõi
cuả phương pháp cơ cấu chính là ý thức về cái hệ thống (cái toàn thể) và cái bộ
phận, cái đa dạng và cái thống nhất.
Lợi thế cuả phương pháp dạy đọc theo
cơ cấu chính là đã dung nạp vào nó một cách ý thức những ưu điểm cuả các phương
pháp dạy đọc đã được áp dụng trước nay. Một phương pháp cổ điển nhất là phương
pháp a-b-c chẳng hạn, nhìn theo lăng kính cơ cấu, cũng cho thấy sự cần thiết
cuả chữ viết trong việc học đọc. Phương pháp cơ cấu sẽ phải quan tâm đến những phương
thức hữu hiệu để giúp học sinh ghép âm vị với đồ vị (chữ viết). Lẽ dĩ nhiên,
chữ viết đã được quan tâm trong chừng mức nó là một thành phần không thể thiếu
cuả một tiến trình học đọc.
Phương pháp ngữ âm đã một thời từng
được đề cao, và nay giáo dục thế giới vẫn xem là một phương pháp ưu việt trong
dạy đọc bước đầu. Phương pháp này vẫn là then chốt cuả phương pháp cơ cấu,
nhưng nó vẫn không thể thoát li khỏi cấu trúc chung cuả phương pháp cơ cấu.
Ngoài ra, những phương pháp gọi là
tổng quát hay phương pháp ngữ học cũng cống hiến những điểm khả thủ cho phương
pháp dạy đọc theo cơ cấu. Khái niệm tổng quát sẽ không trái ngược với ý niệm về
cái toàn thể cuả cấu trúc. Và đó là một cống hiến quan trọng cho phương pháp
dạy đọc.
Tóm lại, phương pháp dạy đọc theo cơ
cấu là một phương pháp nhắm đến hiệu năng cao nhất cho việc học đọc ở bước đầu.
7
Để giảng dạy
các âm vị và đồ vị tương ứng, cho các em được dễ dàng, chúng tôi chọn cho mỗi
âm vị và đồ vị tương ứng một từ cơ cấu
mẫu. Các nhóm từ cơ cấu mẫu trong bộ sách được sắp xếp như sau:
Nhóm 1: mẹ, đèn, võng, em, hộp, bảng, sách.
Nhóm 2: dê, đi / y tá, núi, táo, da, lều, cây / kéo /
quạt.
Nhóm 3: gánh / ghế, rùa, thỏ, nhái, khỉ, trâu, chó,
giun.
Nhóm 4: pin, thư, phố, gà, ăn, phở, nấm, ngựa / gươm.
nhóm 5: cô, tủ, xoài, chuông/vua, ngọc/nghé, nho,
viết/mía, xoong.
Nhóm 6: tuyết/khuya, huệ, quýt, loa/quà, xoắn,
ngoé/que, quơ, quần.
Nhờ học từ cơ cấu mẫu này các em sẽ dễ dàng, trước hết nhớ được âm vị và
sau đó biết được đồ vị tương ứng. Thí dụ để giảng dạy âm vị /m/ và đồ vị tương ứng m chúng tôi chọn từ cơ cấu mẫu mẹ. Từ cơ cấu mẫu có nhiệm vụ giúp để
học biết về cơ cấu của chữ viết chúng ta. Một số mục đích của từ cơ cấu mẫu, sẽ
có liên quan tới việc thực tập học đọc, được ghi nhận như sau :
1. Hệ thống chữ viết của chúng ta là hệ
thống chữ viết ghi âm, nghĩa là các nét vẽ thành đồ hình có mục đích diễn tả
một từ đang được nói và từ ấy sẽ diễn tả một ý nghĩa. Phần nhiều các em mẫu
giáo đã có ý thức là các bài viết có thể đọc thành từ được. Nhưng ý thức ấy cần
phải được đào sâu và làm cho rõ ràng hơn bằng cách diễn tả các sự việc hoặc các
sự vật bằng hình cùng lúc với một bài viết bằng chữ. Trẻ em sẽ thấy là việc đọc
chữ viết khác hơn là việc coi hình và việc viết cũng khác hơn là việc vẽ. Việc
đọc và viết xảy ra trong thực tế như thế
nào đó còn là câu hỏi lớn cho các em. Và
câu hỏi này có thể sẽ là bước đầu tiên giúp các em tìm hiểu thêm. Cũng có thể việc làm quen với sách vở là động
lực thúc đẩy các em học đọc.
2. Việc làm quen với các từ cơ cấu mẫu
sẽ giúp các em khám phá ra là các từ được viết ra, được cấu tạo bởi các thành
phần là dấu giọng và các nét vẽ con chữ hoặc đồ vị. Thí dụ từ bảng: không kể phần âm vị/đồ vị của
thanh điệu, từ này được viết bằng 4 nét vẽ con chữ nhưng chỉ là 3 đồ vị đại
biểu cho 3 âm vị. Trẻ em cũng khám phá ra là số lượng nét vẽ con chữ và đồ vị
chỉ có giới hạn. Trong các từ khác nhau cũng thấy xuất hiện lại các nét vẽ ấy
nhưng dưới các cách kết hợp khác nhau. Các con chữ được phân biệt với nhau bằng
một số đặc tính nhất định. Không phải mọi sự khác biệt giữa các con chữ và đồ
vị đều cần phải quan tâm đến. (Thí dụ sự khác biệt về hình thức của a hoặc g do
các kiểu chữ khác nhau). Để có thể phân biệt được các con chữ và các đồ vị phải
biết là sự khác biệt nào quan trọng và sự khác biệt nào không quan trọng trong
việc phân biệt con chữ và đồ vị. Bằng nhiều bài tập khác nhau với các từ cơ cấu
mẫu dần dần vấn đề này sẽ được sáng tỏ.
3. Nhờ vào các từ cơ cấu mẫu các em có
thể có kinh nghiệm để phân biệt được các
thành phần khác nhau trong một từ được phát âm. Phần lớn các từ cơ cấu mẫu -
không kể âm vị thanh điệu - gồm 3 âm vị.
Âm vị đầu dễ phân tích nhất. Âm vị cuối khó phân tích hơn. Âm vị giữa
khó phân tích nhất. Việc học phân tích các từ cơ cấu mẫu được phát âm thành các âm vị là một đích quan trọng trong
việc học hiểu về cấu trúc của hệ thống chữ viết của chúng ta.
4. Chìa khoá của hệ thống chữ viết của
chúng ta là một đồ vị nhất định sẽ chỉ
diễn tả một âm vị nhất định.
Trong đời sống thường nhật người ta hay nói là “biết các chữ cái”. Đúng ra phải
nói là biết liên kết âm vị với đồ vị thay vì biết liên kết âm với chữ cái.
Cả đồ vị lẫn
âm vị đều là những thành phần chẳng có ý nghĩa gì đối với các em. Vì việc thiếu ý nghĩa ấy làm cho việc liên
kết giữa đồ vị và âm vị khó khăn hơn. Do
đó cần phải lặp đi lặp lại nhiều lần nhất là với các em có trí nhớ yếu.
Bao lâu mà việc liên kết này còn mắc lỗi và không nhanh đủ thì việc phân tích
một từ còn là một khó khăn.
5. Hướng mà âm vị được ghi bằng đồ vị
trong hệ thống chữ viết của chúng ta đi từ trái qua phải. Trong tiếng Ả rập thì
hướng ấy ngược lại với hướng trên. Phần lớn các em không gặp trở ngại trong
việc đọc hoặc viết theo đúng hướng. Tuy nhiên cũng có những em khi viết không
theo đúng hướng quy định.
6. Việc liên kết các âm vị thành một
từ (tổng hợp thính giác và cơ quan phát âm) là một phần khó nhất trong việc học
đọc. Ở đây là cái tổng thể chứ không phải là tổng số các thành phần. Việc phát
âm các âm vị /t/, /ô/, /i/ khác hẳn việc phát âm từ tôi.
Việc nhận được các từ cơ cấu mẫu không phải là mục đích chính. Mà mục
đích của nó là giúp học được các ký hiệu để chúng ta có thể đọc và viết được.
Vì vậy các từ cơ cấu mẫu chỉ giới hạn trong số âm vị và đồ vị tương ứng. Nhiệm
vụ của từ cơ cấu mẫu có thể được tóm tắt như trong bảng sau đây:
Nhiệm vụ
của các từ cơ cấu mẫu:
Phát hiện được cấu trúc của hệ thống chữ
viết
của chúng ta sẽ giúp chúng ta biết được:
|
1 từ được viết ra khi đọc lên sẽ cho một ý
nghĩa
2 một từ được viết ra gồm các đồ vị
3 một từ được nói ra gồm các âm vị
4 những đồ vị nhất định diễn tả những âm vị
nhất định
5 hướng đọc và viết theo chiều từ trái qua
phải
6 các âm vị có thể kết hợp lại với nhau để
làm thành các từ.
|
Như vậy, nhờ biết được các âm vị và
đồ vị tương ứng, nên khi nghe các em có thể chuyển các âm vị thành đồ vị và
viết ra thành chữ. Và ngược lại, khi đọc các em cũng có thể chuyển các đồ vị
thành âm vị rồi ghép lại theo thứ tự để phát thành tiếng.
8
Để giúp các
em làm quen với từ cơ cấu mẫu và nhớ được từ cơ cấu mẫu chúng tôi sẽ kể cho các
em một đoạn truyện xoáy quanh từ cơ cấu mẫu ấy trước khi cho các em học phân
tích và tổng hợp kĩ lưỡng từ cơ cấu mẫu này.
Trong khi biên soạn bài giảng, chúng
tôi sắp xếp các âm vị và đồ vị tiếng Việt thành 6 nhóm như sau:
Nhóm 1 : m, đ, v, e, h, b, s.
Nhóm 2 : ê, i/y, n, t, d, l, c/k/q.
Nhóm 3 : g/gh, r, th, nh, kh, tr, ch, gi.
Nhóm 4 : p, ư, ph, a,
ă, ơ, â, ươ/ưa.
Nhóm 5 : ô, u, x,
uô/ua, ng/ngh, o, iê/ia, oo.
Nhóm 6 : uyê/uya, uê,
uy, oa/ua, oă, oe/ue, uơ, uâ.
Mục đích cuả việc chia nhóm là để chương trình
hoá việc học các âm vị và đồ vị: chẳng hạn, học sinh được học các phụ âm môi và
nguyên âm hàng trước, được kết hợp trong một cấu trúc âm tiết đơn giản. Sau đó
đến các âm vị và đồ vị khác, các cấu trúc rộng hơn. Việc sắp xếp này chỉ có
tính cách quy ước chứ không nhất thiết là hoàn toàn theo thứ tự từ dễ đến khó.
Để tạo hứng thú cho bài học, và nhất
là để tăng thêm vốn từ nói cho học sinh, trước khi vào bài học mới, chúng tôi
chọn cho mỗi nhóm một câu truyện kể xoay quanh một từ cơ cấu mẫu. Thí dụ Nhóm 1: Món quà quý nhất. Với câu
truyện Món quà quý nhất chúng tôi nhằm dạy các em các từ cơ cấu mẫu: me, đèn, võng, (em), hộp, bảng, sách, để qua đó các em học được các âm
vị: m
, đ, v, (e), h, b, s.
9
Tóm lại
phương pháp giảng dạy tiếng Việt "Học
Kĩ Đọc Đúng" là phương pháp dạy đọc theo cơ cấu. Những nét chính cuả
phương pháp cơ cấu là:
(1) học tiếng
Việt theo phương pháp học tập toàn diện: nghe, nói, nhìn, đọc, viết;
(2) học tiếng
Việt theo phương pháp ngữ âm: học âm vị
trước khi học đồ vị tương ứng;
(3) học tiếng
Việt thông qua các bước: (1) nghe truyện kể để làm tăng vốn từ ngữ, mà cũng là
làm quen với từ cơ cấu mẫu; (2) nhận ra và nhớ được toàn khối từ cơ cấu mẫu;
(3) biết được các thành phần âm vị/đồ vị cấu tạo nên từ cơ cấu mẫu và có thể
đọc ra được các thành phần ấy; (4) biết ghép được các thành phần ấy thành từ để
phát âm hoặc viết.
10
"Học
đánh vần"
Trong tiến trình học đọc bước đầu
thì đánh vần có một ý nghiã và vai
trò đặc biệt. Tập đánh vần chính là một hoạt động để tăng cường khả năng nhận
biết từ. Chương II đã nói về việc nhận diện từ, và mối quan hệ cuả nó với việc
đọc hiểu. Chúng ta biết rằng học sinh có thể nhận diện từ bằng nhiều kĩ thuật
khác nhau. Những kĩ thuật nhận diện từ trải rộng từ mức độ nhỏ hơn từ lên đến
cấp độ từ và trên từ. Để giúp học sinh tăng nhanh khả năng nhận diện từ, học
đánh vần là phương pháp hữu hiệu để học sinh nắm vững kĩ thuật đọc sơ đẳng ở
buổi đầu. Những thành phần của việc học đọc sơ đẳng là:
1. đọc từ trái qua phải;
2. phân tích một từ thành các đồ vị,
thí dụ t - ê - n (phân tích thị giác)
3. đổi các đồ vị thành các âm vị
thích hợp và phát thành âm /t/ ê/ n/
4. ghi nhớ các âm theo đúng thứ tự
(nhớ ngắn hạn);
5. ghép các âm vị thành một từ /tên/ (tổng hợp thính giác);
6. nhận được
nghĩa của từ (mặt ý nghĩa).
Trong tiến trình này, giai đoạn 2
đến giai đoạn 5 là những giai đoạn kĩ thuật giúp học sinh nắm vững cách
đọc đúng một từ đơn mới học.
Học sinh tập phân tích từ nói và từ viết để nhân ra lằn ranh phân chia
ba âm vị tuyến tính và âm vị phi tuyến tính cuả một âm tiết. Khi tách được bốn
âm vị và bốn đồ vị tương ứng cuả âm tiết rồi, đến giai đoạn 5 là ghép các âm vị
thành một từ. Làm được như thế là nhờ kĩ thuật “đánh vần”.
11
Kĩ thuật
“đánh vần” có thể được thực hiện qua các lối sau đây, trong đó lối thứ nhất là
lối thực tập nên khuyến khích, vì sẽ giúp học sinh phân tích chính xác lằn ranh
các âm vị và đồ vị cuả âm tiết trong những buổi đầu:
bước
1 bước 2 bước 3
* Ở trên ta
chỉ nói tới âm vị mà không nói tới âm. Âm có thể khác biệt nhưng không có ảnh
hưởng tới ý nghĩa. Những âm chính của một từ có thể ít nhiều bị ảnh hưởng bởi
các âm chung quanh. Âm / ɑ / của tan
nghe có vẻ khác / ɒ / của tát. Đó là
hai âm khác nhau. Nhưng theo âm vị thì chúng chỉ là biến thể của cùng một âm vị
/ ɑ / .Vì vậy nên nói tới âm vị hơn là nói tới âm. Âm vị là một đơn vị âm của
ngôn ngữ có chức năng khu biệt về ý nghĩa.
* Cũng có
khác biệt về con chữ và đồ vị. Một đồ vị là một biểu tượng của
một âm vị. Có những đồ vị có hơn một con chữ như ch, ia, iê, uô v.v..
* Việc học
đọc đánh vần cũng tùy thuộc vào một số yếu tố như:
· Độ dài của
từ: thí dụ oà, hòa, huyên, huynh, huênh huếch.
· Cấu trúc của
từ: thí dụ ngoao, hươu.
· Âm của từ:
thí dụ hoãng, hoẵng.
· Hoàn cảnh
xảy ra sự việc.
12
Có hai thành
phần của việc học đọc đọc đánh vần gây nhiều khó khăn nhất:
. Việc liên kết đồ vị với âm vị. Việc liên
kết này đòi hỏi một tiến trình học đọc lâu dài để có thể liên kết và phát âm
không trở ngại và nhanh chóng.
. Việc liên kết các âm vị thành một từ.
Việc tổng hợp thính giác bị khó khăn vì các lí do sau đây:
+Âm vị, khi
được phát âm thường ít khi giống đúng như âm trong từ liên quan được phát âm.
Các phụ âm chỉ có thể phát thành âm khi có âm phụ đi theo. Phụ âm /b/ phát
thành âm /bơ/.
+Việc phát
âm một từ đòi hỏi có sự chuyển đổi giữa các âm được biểu thị bằng các con chữ
(thí dụ tr.ươ.ng).
+Để có thể
tổng hợp các âm của một từ nào đó đòi hỏi phải nhớ các âm theo đúng thứ
tự. Các âm /c/, /a/ và /t/ có thể làm
thành từ cát và tác. Vì vậy việc nhớ vị trí của các âm khác nhau rất quan trọng.
Đoàn Xuân
Kiên
(1) Phạm Thị Tú Minh, Nguyễn Văn Thế & Đoàn Xuân Kiên (1998), Học Kĩ Đọc Đúng. Tilburg: Nxb. Zwijsem.
No comments:
Post a Comment