KHI CON DẾ
HÁT RONG
BƯỚC VÀO CÕI LỚN
Đoàn Xuân Kiên
1
Hơn
nửa thế kỉ qua, Phạm Duy - con dế hát
rong (1) hay người du ca đầu tiên
(2) ấy - đã sống và hát về bao nhiêu là cảnh đời bi hoan trong một phận nước
nổi trôi. Hình ảnh con dế hát rong trong trường hợp này khá gần gũi với hình
ảnh người bõ già trong Cung Oán Ngâm
Khúc (3). Phạm Duy cũng là một nhân chứng của thân phận Việt Nam hơn nửa thế kỉ
qua đấy chứ ! Đứng trước ngưỡng cửa vào thế kỉ mới, người bõ già của thế kỉ cất
lên tiếng hát phóng về năm 2000 mà ông gọi là Rong Ca. Mười bài Rong Ca trong album mang tựa đề đầy đủ là Mười Bài Rong Ca “Người Tình Già Trên Đầu
Non”- Hay Là Hát Cho Năm 2000. (Phạm Duy Cường Musical Productions,
California, 1988).
Mười
bài Rong Ca đánh dấu một bước chuyển biến mới trong nghệ thuật sáng tác của
Phạm Duy tại hải ngoại. Trước đó, trong khoảng hơn mười năm, ông cũng như bao
nhiêu người Việt lưu vong khác, vướng bận tâm tư trong nỗi dằn vặt về niềm nhớ
quê, nỗi hoang mang về một thân phận biệt xứ, và nỗi bất bình về cảnh ngộ của
dân tộc trong cơn đồ thán. Hát Trên Đường
Tị Nạn (1978), Ngục Ca (1981), Hoàng Cầm Ca (1984) ra đời trong hoàn
cảnh ấy. Khi những nét nhạc cuối của Bầy
Chim Bỏ Xứ tương đối hoàn tất vào năm1985 thì người nghệ sĩ Phạm Duy cũng
tìm thấy lại phong thái của một người bõ già của thế kỉ, và hát lên những khúc
Rong Ca vừa thanh thản mà vững chãi, vừa trữ tình mà sâu lắng, “rất Phạm Duy”.
Rong Ca mang tính cách những trầm tư của một người đã qua cầu, một dấu tích tư
liệu của một người chứng thời đại. Nhưng Rong
Ca vẫn là một tác phẩm mang đầy đủ những nét tâm tình Phạm Duy.
2
Tầm cao của
một sức trẻ
Trước
hết là cái tựa. Từ Rong Ca có một cấu
trúc từ pháp khập khiễng nửa hán nửa nôm, nghe ra có vẻ nghịch ngợm dí dỏm.
Phạm Duy đã nhiều lần dùng cách nói này để gọi tên các bài hát của ông, chẳng
hạn ông gọi một số bài là “vỉa hè ca”, “bé ca”với ý nghĩa là loại bài hát đùa
ngoài đường ngoài ngõ (đạo lộ ca) và loại thiếu nhi ca. Có lẽ ông không muốn
dùng lại từ “ du ca” khi đặt tên loạt “bài hát của gã
hát rong” này vì những nét khác biệt về nội dung, nên ông đặt tên chúng là
“rong ca” chăng ? Tên gọi thật dung dị nhưng phản ánh tính cách con người ông.
Như đã nhắc ở trên, ông có lần tự gọi mình là con dế hát rong. Đây là lời tự
tình của con dế mà qua đó là vài nét phác chân dung tự họa thật sắc nét:
Con dế đã theo làn mây lãng tử
Vượt khỏi trần gian vào ngủ vườn tiên tìm thấy lãng quên
Nhưng nhiều khi mây về
đầu non
Mây làm tranh vân cẩu
sầu thương...
Anh còn đây !
Anh vào nghìn sau bằng
muôn tiếng nhạc
(Con
dế hát rong -1983)
Tất
cả mười bài rong ca đều viết ở thể truyện
ca (ballad), một thể loại bài hát của truyền thống những người hát rong
(troubadour). Những bài hát kể thường kết cấu đơn giản, nội dung là những lời
tán tụng tình yêu hay những suy ngẫm siêu hình, lời hoạt kê thời sự xã hội. Nói
về số lượng những bài truyện ca thì Phạm Duy vẫn là quán quân. Kể từ những bài
dân ca kháng chiến đến những bài rong ca
lần này, những bài truyện ca của Phạm Duy vẫn đậm đà âm sắc dân giã, gần gũi
tâm tình quần chúng Việt Nam mọi lứa tuổi. Lần này, Duy Cường phối khí album
Mười Bài Rong Ca theo phong cách nhạc new
age rất trẻ trung, mới mẻ. Cũng là một thú vị được thưởng thức một Phạm Duy
ở những xông xáo về phía những thể nghiệm phong cách mới như ông vẫn liên tục
lao về hướng tiên phong trong những sinh hoạt âm nhạc từ mấy mươi năm nay: từ
những thể nghiệm sáng tác “dân ca mới” đến “ trường ca”, rồi những bài hát giàu
tính cách tâm linh hướng nội, từ kĩ thuật truyền thống đến kĩ thuật điện tử, từ
phong cách dân tộc đến phong cách hiện đại.
Một
nét đáng chú ý khác nữa là những bài truyện ca thường vẫn láy đi láy lại nhiều
lần một giai điệu, lời hát dễ sa xuống kể lể dông dài, cho nên một bài hát xẩm
của ta trước kia hay một bài ballad của những người hát rong bên tây có giá trị
đều là những bài thơ đúng nghĩa. Trong Mười
Bài Rong Ca, nghệ thuật lời ca của Phạm Duy vẫn là nghệ thuật bậc thầy. Lời
hát trong tập này dùng ngôn ngữ ẩn dụ, do vậy mà nhiều chất thơ. Lời hát bóng
bẩy như ngôn ngữ tượng trưng của ca dao. Hãy nghe một câu hát bất kì:
Chớ buồn gì khi tan nắng, đêm về
Cho thuận đường âm dương
bước đi
(Nắng
chiều rực rỡ)
Đêm
đã không phải là khoảnh khắc thời gian sau khi tắt nắng, mà trở thành ẩn dụ về
cái chết để sẽ ứng với hình ảnh “đường âm dương bước đi”. Phong cách lời hát
này không khác gì lối nói ý nhị trong câu ca dao: “Núi cao chi lắm núi ơi, Núi che mặt trời chẳng thấy người thương”,
trong đó ẩn dụ “núi cao” không còn là khối đá sừng sững mà là một khoảng cách
ngăn tình cảm đủ “che mặt trời” tình yêu của người con gái. Ngôn ngữ thi ca đã
làm mới không gian ngoại giới và biến nó thành ngôn ngữ nội tâm của nghệ thuật.
Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ tượng trưng một cách tân kì trong truyện Kiều để có
được hơn năm trăm câu thơ vào hạng “lục bát hôm nay”. Hình ảnh mùa thu trong
câu thơ này chẳng hạn, đến nay vẫn rất mới: “Người lên ngựa, kẻ chia bào, Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”.
Màu quan san? Tuyệt !
Hãy
so sánh với những lời hát trong các bài truyện ca trước kia sẽ thấy rõ sự thay
đổi phong cách đặt lời hát trong Rong Ca. Trong một bài truyện ca ra đời trong
thời kháng chiến, ông viết:
Ai có nghe tiếng hát hành quân xa
Mà không nhớ thương
người mẹ già...
(Nhớ
người ra đi)
Lời hát bình dị mộc mạc như lời nói thường ngày. Đến
Rong Ca, nghệ thuật thể hiện lời ca không dừng lại ở ngôn ngữ kể chuyện mà chờn vờn trong cõi hư ảo của ngôn ngữ thơ.
Cho nên câu hát sau đây chẳng hạn:
Nghìn thu Anh là suối trên ngàn
Thành sông Anh đi xuống
Anh tuôn tràn biển mơ
Nghìn thu Em là sóng xô
bờ
Vào sông Em đi mãi không
bao giờ biển vơi
(Bài
hát nghìn thu)
cần phải được lí hội không cùng một lối với bài kháng
chiến ca ở trên, vì phong cách ngôn ngữ đã rất khác nhau. Nghệ thuật đặt lời
của nhiều bài trong Rong Ca là nghệ thuật sử dụng hình tượng; hình ảnh trong
lời hát do vậy mặc ý nghĩa biểu trưng, và những hình tượng thơ trong lời hát là
một hiện thực khác trong thế giới cảm xúc nghệ thuật. Mối liên hệ với thế giới
hiện thực khách quan là một mối liên hệ huyền ảo, một phong cách khá quen thuộc
trong văn chương châu Mĩ-Latinh. Và đấy lại là một nét độc đáo khác của Phạm
Duy.
Một thế kỉ
của những đổ vỡ
Như
vừa nhắc ở trên, Rong Ca là một dấu tích tư liệu của một người chứng thời đại.
Thật thế, Rong Ca là những tiếng hát về đời người Việt Nam chúng ta
trong một thế giới bạo động, một thế kỉ nhiều bi kịch nhiều đổ vỡ. Bài hát
“Ngụ ngôn mùa xuân” là khúc hát về một điển hình của thân phận nhược tiểu bị
mắc kẹt trong lưới xung đột ý thức hệ của một thời chiến tranh lạnh dài dằng
dặc. Không riêng gì Việt Nam, các nước thế giới thứ ba đều chứng kiến cảnh nồi da xáo thịt nhân danh những chủ
nghĩa, những lí tưởng vĩ đại. Người ta hợm hĩnh với nhau trong cõi vô minh, tự đắc với nhau trong
trạng thái tâm lí “thắng lợi tinh thần” kiểu Ả Q. của Lỗ Tấn. Nghe ra ngậm đắng
nuốt cay thế nào ấy:
Có khi mù này đánh lui
mù đó
Hả hê về nhà mắt ốc
ngước lên
Có khi thằng câm thắng
cơn cãi lộn
Hả hê về nhà ú ớ mừng
rên !
Có khi thằng mù, gã câm,
thằng điếc
Gác chân tự đắc nằm
trong chòi nghèo
Buồn thiu mà cứ ngỡ là
lầu cao !
(Ngụ
ngôn mùa xuân)
Có lẽ
vì vậy mà người nghệ sĩ mơ ước một thế kỉ tốt đẹp hơn có khả năng mở mắt cho
các chính khách thiển cận. Bằng những nét châm biếm ý nhị, bài hát là một bức
hí họa về một thời bất hạnh của thế kỉ này.
Chẳng
có gì đáng ngạc nhiên khi người nghệ sĩ ấy hát tiếp về “mộ phần thế kỉ”, trong
đó ông hình dung bao nhiêu đau thương chồng chất trên vai oằn của nhân loại sau
khi trải qua những cuộc chiến tranh, đói rách triền miên gần hết một thế kỉ.
Nạn nhân của thế kỉ là những người đã bỏ đời vì chiến tranh thù hận. Những oan
hồn kia đi về đâu? Chỉ biết là chính những kẻ còn sống sót đây cũng nhếch nhác
không kém:
Có bóng dáng triệu người
Phiêu diêu nơi thế chiến
I, thế chiến II...
Một trăm năm bao trẻ em
mang thần Đói lên đường
...Người đi trong mùa
đông
Đội khăn tang mang tình
thương
Theo người phu đi đào lỗ
bên tường...
...Những xác úa từng
miền
Những xác ướp bạo quyền
Chôn ngay đi !
Vứt chúng vào hố lãng
quên
(Mộ phần thế
kỷ)
Việt
Nam trong một thế kỉ như vậy là một phần số không may. Nó là hình ảnh của con
ngựa hồng, ngày nào xưa cũng đã từng oai phong lẫm liệt như con ngựa chiến,
nhưng đến cuối thế kỉ này thì chỉ còn là con ngựa già còng lưng, bị bịt mắt dẫn
đi trên thân phận của kẻ nô dịch. Nô lệ cho ý thức hệ ngoại lai hay bất cứ thứ
quyền lợi ngoại bang thì cũng dẫn đến tình cảnh tang thương là bị cột chặt vào
những xiềng xích:
Ngựa dù hôm nay đeo yên gấm vóc hay đưa xe
loan
Cũng là kiếp nô !
Kiệu vàng trên lưng
nhưng đôi mắt đã che ngang
Bơ vơ trên đường nhấp
nhô...
...Từng ngọn roi đau tàn
bạo
Từng gò dây cương nghẹn
ngào
Một hàm thiếc khóa miệng
vào
Cuộc đời lao đao của kẻ
vong thân
Khiêng voi cõng rắn trên
lưng...
(Ngựa hồng)
Trong
một đất nước trầm luân như thế, có thể hình dung được số phận những người con
dân đất nước. Có lẽ điển hình cho những thống khổ của thân phận Việt Nam là
những người Mẹ.
Việt Nam ngày nào rạng rỡ yên vui
Nhờ trong quá khứ có Mẹ
lên ngôi
Thắm thiết tình người
gửi tới nhân loại
(Mẹ năm
2000)
Mẹ
Việt Nam đã bao lần tiễn đưa cha, rồi chồng, rồi con ra đi chiến tranh -một chuỗi chiến tranh thảm khốc đã góp phần
làm rách nát đất nước, rách nát cả tình người.
Tiếng hát người nghệ sĩ cất lên như một lời cấp báo
thống thiết:
Nào ai đang nhìn Mẹ ta
hấp hối
Mẹ đau, Mẹ nghèo, Mẹ
yếu, không vui
Nhin nhau bối rối, ta
cùng hối lỗi
Xúm xít lại rồi giải cứu
cho Người
(Mẹ năm
2000)
Mẹ
Việt Nam đang bệnh. Đó là một lời báo động rất đỗi kinh hoàng về tương lai dân
tộc. Người nghệ sĩ cũng nhạy cảm để cũng nhìn thấy như những nhà nhân văn, khi
đứng trước những sa đà về giá trị tinh thần. Nếu ngày mai bắt đầu từ hôm nay
thì chúng ta thấy gì ở ngày hôm nay? Bé thơ nhếch nhác, đói ăn thiếu mặc và
thiếu học hành. Vì vậy mà có câu hỏi - những câu hỏi nhức nhối đặt ra cho mọi
người chúng ta khi nhìn lại hiện trạng của dân tộc:
Mẹ đang đi vào cuộc đời đang tới
Mẹ đang đi vào thế kỷ
ngày mai
Sinh con anh hùng, người
hiền nhân ái ?
Hay sinh kẻ hèn, bạo
chúa vô loài ?
(Mẹ năm
2000)
Dù
anh là người tin theo lí thuyết “tình yêu bú mớm nâng niu của vòng tay mẹ hiền
sẽ cho gia đình những đứa con ngoan, và ươm trồng cho xã hội những công dân
tốt” của John Bowlby (4), hay anh là người tin vào lẽ luân hồi của đạo Phật,
hay là gì đi nữa, thì hình ảnh người Mẹ Việt Nam năm 2000 như được hình dung
trong bài hát cũng sẽ là hình ảnh ray rứt khôn nguôi.
Dù
vậy, trong hoang tàn đổ nát hôm nay, người nghệ sĩ vẫn hi vọng một mùa hoa nhân
loại sẽ nở rộ trên những nấm mồ của thế kỉ bất hạnh:
Rồi tan trong mộ sâu
Một thây ma mang buồn
đau
Thế kỉ sau sẽ dùng bón
hoa mầu
...Đi qua nấm mồ sẽ thấy
ngọn cỏ mềm
Cho êm cõi đời, cho tình
nhân ngã lên
Khi trên nấm mồ còn nở
rộ bông hoa mới...
(Mộ phần thế
kỷ)
Hôm
nay cũng như ba mươi năm trước, Phạm Duy tin tưởng rằng tình yêu là khí giới để
xóa hận thù (Việt Nam! Việt Nam!).
Thông điệp của ông trong Mười Bài Rong Ca là: thế kỉ này đầy bi kịch chỉ vì nó
chồng chất quá nhiều oan khiên mà chỉ có thể hóa giải chúng bằng tình thương.
Và ông hát vang lời tình yêu trong buổi hoàng hôn của thế kỉ, nguyện rằng những
người yêu nhau sẽ được gần gũi bền lâu chẳng vì đời đã ban chiều:
Ước nguyện thầm cho đôi lứa ân cần
Nuôi thật dài hoàng hôn
ái ân
Ước nguyện rằng khi đêm
chết chưa về
Nắng chiều hồng tươi hơn
nắng trưa
(Nắng chiều
rực rỡ)
Tình
yêu sẽ là lẽ sống nhiệm mầu của đời mỗi chúng ta, cho nên:
Đã trót đưa Em tới miền yêu dấu
Anh cũng theo em bước
vào khổ đau
Khi thấy ai trong cõi
trần khô héo
Anh đã dâng cho trái tim
nhiệm mầu
(Rong khúc)
Cho
dù có chết đi thì rồi họ sẽ được hóa sinh, chẳng khác chi những cây khô mùa
đông vẫn không ngừng trẻ lại:
![]() |
Nghe nhạc: https://www.youtube.com/ watch?v=zCdbdpZpOPc |
Người trở thành cây mùa đông
Lá úa rơi vun cao cội
nguồn
Nhưng cuối bước đi trăm
năm một lần
Đầu cành khô có hoa nở
tràn
...Người tình vào cuộc
tủ sinh
Sống chết lung linh
(Hoá sinh)
Cứ
thế người đời sẽ không ngừng vun đắp cho tình yêu vững bền:
Nghìn thu Anh là đã Em rồi
Và Em trong muôn kiếp Em
đã ngồi ở Anh
Nghìn thu ta bù đắp
không ngừng
Tình âm dương chan chứa
chất xoay vùng tử sinh
(Bài hát
nghìn thu)
Thế
kỉ XX đã chứng kiến sự tung hoành của những guồng máy quyền lực liên tiếp xô
đẩy thế giới xuống chết chóc, tan lìa. Phơi trải trong Rong Ca là những số phận
vui ít buồn nhiều. Những số phận con người như thế đã nhan nhản trong tiểu
thuyết của những nhà văn khắp nơi. Cũng
chẳng phải Phạm Duy nặng lời thóa mạ thế kỉ son vàng của ai đó. Thế kỉ này là
thời buổi chó má dưới mắt V.C . Gheorghiu và Gunter Grass, thời dịch hạch (A. Camus),
thời thổ tả (G. Garcia Marquez)... Hoá ra nghệ sĩ là “giống nòi tình thương
người đồng điệu”, ở mãi tận đâu đâu mà sao vẫn thanh khí. Vinh và nhục của
người nghệ sĩ là sống với niềm vui nỗi khổ của nhân sinh, làm chứng cho đời
bằng tác phẩm của mình. Phạm Duy cất lên tiếng hát trong truyền thống “hát để
nhớ đời” đó vậy. Có điều là ông không viết một bài ai điếu như Văn Chiêu Hồn (Nguyễn Du), ông cũng
chẳng thuyết lí như những nhà văn hóa phương tây (Oswald Spengler chẳng hạn).
Ông chỉ hát về nỗi đau phổ quát của đất nước và cộng đồng dân tộc chúng ta: đất
nước thì long đong trong một thế giới nhiều bi kịch, dân tộc thì bị tha hóa, sa
đà về những giá trị tinh thần. Tấm lòng non nước của người nghệ sĩ rung những
cung bậc thắm thiết khi hát về thân phận con ngựa hồng phi về hướng những mộ phần
thế kỉ.
Hát
về thế kỉ ? Hẳn đây không phải là những phán quyết của một thứ quan ngự sử, hay
những trầm tư của nhà văn hóa dày công nghiên cứu về những hưng vong của xã hội
con người đó đây mà lên lời tiên báo đường tương lai. Đây chỉ là những cảm nhận
của nhà nghệ sĩ, cảm xúc của ông rung động về số phận đồng bào mình đang trải
qua một thời nhiều ô nhiễm. Sứ mệnh của văn nghệ xưa nay vẫn là thế: “bất bình tắc minh”. Hát về thế kỉ ? Dễ
thường cũng có mấy ai ngông và can đảm như vậy. Hát về những chiều kích không
gian thoáng và thời gian dài không thể là tiếng hát từ cõi tâm chật hẹp bị
vướng mắc trong những khoảng cách, những phân biệt. Phải đủ sức nặng của cánh
chim bằng mới bay lên khỏi tầm nhìn hữu hạn của thế gian mà “nhìn xuống” nhân
gian mênh mang dưới kia.
Hát
về thế kỉ mình đang sống, người nghệ sĩ cũng đồng thời hát về những con người
với những tình cảm yêu thương và sự phẫn nộ, có hoan lạc nhưng cũng bàng bạc
nỗi ngậm ngùi. Nhưng bao trùm lên hết thảy là tình cảm độ lượng bao dung của một hiền giả. Những bài hát kể trong
tập Rong Ca đều có nhịp tiết thong thả, an hòa. Cho dẫu là những tiếng hát âu
lo về tương lai dân tộc (Mẹ năm 2000) hay nỗi ngậm ngùi về phận người (Trăng
già), thậm chí cái chết (Nắng chiều rực rỡ), tiếng hát vẫn không sa xuống nét
buồn thảm mà cùng lắm chỉ để lại dư hưởng nỗi bâng khuâng, khắc khoải. Bài hát
viết ở thể thứ như “Mẹ năm 2000” hay “Mộ
phần thế kỷ” là những bài như thế. Trong Rong Ca chúng ta thấy ngồn ngộn những
nạn nhân của thế kỉ, họ xuất hiện trong dáng vẻ nhẫn nhục như trong một thứ Guernica (5) của người nhạc sĩ : này là
những người tình xa cách, kia là những em bé lạc loài thiếu ăn thiếu mặc và
thiếu học hành; đây là người phu dọn xác, và cả kia nữa những con ngựa thồ khốn
khổ vì gánh nặng, những kẻ câm điếc mù lòa trong kiếp vong thân... Tất cả những
nhân vật trên sân khấu đời kia đều được nói đến bằng niềm thương cảm sâu xa.
Cũng như những nhân vật trong Guernica ngoái cổ trông lên trên cao, Phạm Duy
cũng cho Rong Ca nhiều ước mơ về một đổi thay tốt đẹp.
Tiếng gọi
càn khôn
Ở
trên có nhắc đến nỗi ước mơ của người nghệ sĩ về một thế kỉ ngày mai. Niềm lạc
quan của người tình già được gửi gắm trong vòng hóa sinh của tình yêu. Thậm chí
người tình già vẫn thấy tình yêu lúc chiều đời ấm nồng như thuở nào, vẫn nắng
chiều rực rỡ. Cả mười bài Rong Ca đều kết thúc “có hậu”: hoặc là có hoa nở rực,
hoặc một ước vọng tươi sáng được nói ra, hoặc nữa là một sự đền bù cho những
mất mát đã qua. Thế mà len lỏi đâu đây vẫn có những tiếng thở dài của người
tình già hiu hắt nơi đầu non khi nhìn xuống “thế gian mông mênh vời vợi”. Nỗi đơn côi của người nghệ sĩ bảng lảng
đó đây trong toàn tập Rong Ca.
Khi
nhận thức điều này, thoáng chốc thế giới hiện ra vẻ trần trụi khô gầy tàn héo
như mùa đông của thế kỉ. Ta tưởng như
nhìn thấy người tình già đang lầm lũi độc hành , nghe niềm riêng khắc
khoải cùng “tình ta mãi mãi đơn côì”. Ta gặp lại ở đây lời đối thoại (hay độc
thoại ?) giữa người nghệ sĩ và thế giới của sự vật - một biểu hiện của tâm
trạng lẻ loi cô quạnh. Ở đây nữa ta lại gặp những người thanh khí với nhau dù ở
những quãng cách không gian và thời gian xa nhau mà như rất đồng điệu. Này là
lời thì thầm với trăng (Phan Huy
Thực: Tiết thu dạ thiên quang vân
tĩnh,Chốn lữ đình giấc tỉnh canh khuya... - Tản Đà: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !),
kia là kẻ nói chuyện với bóng (Ca dao: Một duyên hai nợ ba tình, Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh!)...Hóa
ra, người tình già trong Rong Ca vẫn như một cánh nhạn lẻ loi, ôm một khối tình
riêng mà bay trong cõi nhân gian. Con nhạn lạc loài có khi lên đỉnh non cao
nghe tiếng càn khôn vang lạnh một trời (6).
Vậy
thì những lời hát về thế kỉ và phận người trong Rong Ca không dừng lại ở việc
vẽ lại bức tranh nhân thế, mà còn mở lối về thế giới của cõi tâm. Thế kỉ này
chẳng qua cũng chỉ là một gợn mây giúp chỉ hướng vành trăng tâm linh người tình
già mà thôi. Nói cách khác, Rong Ca là nhận thức mới về nghĩa đời mà người nghệ
sĩ đã ngộ được qua hành trình nhân gian. Hình ảnh cuộc đời sẽ mang màu sắc khác
hẳn, khi nhìn từ chiều kích đó. Mười bài Rong Ca không phải là những bài hát
đầu tiên của Phạm Duy chứa đựng những chiêm nghiệm về chữ thời, về hành trình của con người trong thời gian. Hẳn thế. Nhưng ở
tập bài hát này, những chiêm nghiệm như thế được cô đúc lại thành một chủ đề
nhất quán.
Hiện
thực thế giới hiện bày nét vô thường trong chu kì luân chuyển của nó. Sau những
thời oanh liệt của mình, chung cục những hào quang (có khi chỉ là giả trá) rơi
vào lãng quên hoặc bị vùi xuống mộ phần. Đấy là hình ảnh hư huyễn của thế gian
phơi trải trong Rong Ca. Người tình già đã đi qua hết những ảo hình như thế
trong suốt một đời rong chơi nơi dương thế có mặn mà đấy nhưng cũng quay cuồng
vật vã (Rong khúc), thấy vật đổi sao dời trong thân phận một đất nước oan khổ
(Ngụ ngôn mùa xuân, Ngựa hồng) hay của cả thế giới này (Mộ phần thế kỉ), để
ngậm ngùi hát cùng đất đá mà nghe như đất đá cũng biết thở dài vì sự vật đổi
sao dời (Trăng già). Thế giới vật chất đã vậy, đến cả thế giới nội tâm cũng đi
hết con đường biển dâu của nó. Rong Ca vẽ lại một cảm thức muôn thuở của triết
lí về chữ thời: “người ta không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông”.
Tình ta biến hóa trong từng sát na
Tình ra ánh sáng, tình
về tối đen
(Bài
hát nghìn thu)
Khi
cụ thượng Trứ “hiêu hiêu nhiên” cưỡi bò vàng ngất ngưởng cũng là lúc cụ ngộ ra
lẽ đời huyễn hóa, như một nhà thơ cùng thời với cụ từng ngâm nga:”Ôi nhân sinh là thế, như mây nổi, như gió
thổi, như chiêm bao...” (7). Phạm Duy thì hát thế này: “ Người tình vào cuộc tử sinh sống chết lung
linh”. Đời sống vẫn đắp đổi không ngừng trong chu trình của nó thôi: “Chớ buồn gì khi tan nắng đêm về, Cho thuận
đường âm dương bước đi”. Cả chính con người đây cũng chỉ là hiện thân của
trùng trùng duyên khởi, của lẽ “sinh sinh”: “Nghìn thu Anh là suối trên ngàn, Thành sông Anh đi xuớng Anh tuôn tràn
biển mơ. Nghìn thu Em là sóng xô bờ, Vào sông Em đi mãi không bao giờ biển vơi”.
“Bài hát nghìn thu” đẹp long lanh dáng vẻ của thế giới vĩnh hằng là Nghệ thuật.
Bài hát là vọng âm của những cảm thức mà Phạm Duy đã chiêm nghiệm từ thuở “Bên
cầu biên giớì”, hay“Lữ hành”,“Xuân hành”. Hát về Vẻ Đẹp ! Thì đã hẳn. Nhưng bắt
được cái Đẹp thiên thu trong cái khoảnh khắc hữu hạn thì phải là một công phu
của đời sống nội tâm.
Mười
bài Rong Ca là cuộc hẹn hò với trăm năm,
với thế giới vĩnh cửu. Người tình già an nhiên hát về lời hẹn với thế kỉ
ngày mai với những dự phóng mới (Hẹn em năm 2000), như cánh chim thoắt bay từ
mùa đông lạnh giá qua mùa xuân, như cây khô bỗng nở tràn hoa mới (Hóa sinh).
Thời gian đã trở thành một thể miên viễn, chẳng còn phân biệt thu/đông bởi vì
xuân đã không còn có mùa nữa mà đã trở thành không tuổi. Trong tập Rong Ca, những bài Hóa sinh (hay là Người tình già trên đầu non), Hẹn
em năm 2000, Nắng chiều rực rỡ, Bài hát nghìn thu, Rong khúc là những bài
hát về cuộc hẹn hò này. Đấy là những tiếng hát từ một cõi tâm bừng nở những cảm
thức mới lạ đẹp đẽ, những tình cảm trinh nguyên thanh khiết. Tâm hồn chúng ta
được tung tăng trong không gian khoáng đạt không bị ngăn chia biên giới của tâm
thức hẹp hòi. Tầm mắt chúng ta phóng xa vào thời gian vô cùng không chia quá khứ vị lai. Tiếng hát phiêu
bồng khoáng đãng trong cõi an hòa chứ không đắm chìm trong mộng mị của một tâm
cảnh khác chỉ muốn lảng tránh hiện thực bất như ý. Khi một nhà thơ bảo rằng:
“Thoáng hiện em về trong đáy cốc, Nói cười như chuyện một đêm mơ” (8), thì có
phải thời gian đã phân chia và đối lập nhau giữa bây giờ và hôm qua ? Rất khác
với tâm cảnh của “người tình vào cuộc tử sinh sống chết lung linh”.
Người
tình già nghe tiếng gọi càn khôn nên
có thể “đạp tung lưới sinh tử” để rong chơi với vô cùng.
Người tình vào cuộc tử sinh
Sống chết lung linh
...Thành người tình đang
trẻ ngây
Sẽ đứng lên mê say từng
ngày
Cất bước xuân đi qua hạ
dài
Người hẹn người leo thế
kỉ chơi
...Rồi lại từng thế kỉ
sau
Cứ hóa sinh theo...
(Hóa
sinh)
Em
bên tôi trong khoảnh khắc này cũng là Em của nghìn thu tình đầy:
Nghìn thu Anh là đã Em rồi
Và Em trong muôn kiếp
Em đã ngồi ở Anh
Nghìn thu Ta bồi đắp
không ngừng
Tình Âm Dương chan
chứa...
(Bài hát
nghìn thu)
Kinh
Thánh có một ẩn dụ: người giàu muốn bước vào nước Chúa còn khó hơn là lạc đà
chui qua lỗ kim. Công phu lắm. Nhưng khi đã bước vào cõi Lớn và nghe được tiếng
Càn Khôn là đạt đến niềm hạnh phúc lớn lao, vượt thoát những tình cảm thế gian
chật hẹp. Con người trở nên cao lớn trong tâm thức một Đại Trượng Phu:
Thôi nhé ! Cho Anh giã từ Trái Đất
Anh đã nghe vang tiếng
gọi Càn Khôn
Nhưng nếu Em yêu muốn
vào cõi Lớn
Anh sẽ cho Em dắt tay
lên đường
Một đường hành tinh...
(Rong khúc)
Từ
thế kỉ đổ vỡ tang thương mà cõi tâm của người nghệ sĩ ngộ được tiếng gọi nghìn
thu, để ung dung bước vào cõi lớn. Từ một tâm thức như thế thì con đường vào
thế kỉ ngày mai sẽ không còn chật chội như đường ngựa hồng hôm nay, cũng sẽ
không là đường dẫn về mộ địa. Đường tình thương sẽ làm lớn con người như sương
tuyết vẫn nuôi lớn cội tùng. Nếu tình thương có thể khâu vá lại đời sau thì
thông điệp của Rong Ca chính là thông điệp của tình yêu lớn. Tình thương yêu sẽ
điều hợp lại con người trong một thế giới đã nhiều bi kịch. Rong Ca như thể một
kết tinh những cảm thức siêu hình mà Phạm Duy đã từng thể nghiệm dọc dài đời
sáng tác của ông. Những kinh nghiệm tâm linh huyền nhiệm như thế thường được
thể hiện qua những giai điệu trầm mặc êm nhẹ. Ở mười bài Rong Ca, giai điệu
thường sáng, nhịp tiết vững chãi mà thung dung.
3
Ba
mươi năm trước đây, khi viết Mười Bài Tâm Ca (1965), Phạm Duy đã gây xúc động
lớn. Công chúng thưởng ngoạn nghệ thuật lúc bấy giờ đang khao khát một sự đổi
thay trong sinh hoạt âm nhạc trong các thành phố miền Nam. Phạm Duy với Tâm Ca
mang phong thái của người nghệ sĩ muốn dứt bỏ thái độ ngoảnh mặt lại cuộc đời,
để sáng tác những bài hát trĩu đầy chất hướng nội và dũng cảm nhận diện sự thật
đang vây bủa xã hội tha hóa nặng nề vì những thế lực chiến tranh lúc bây giờ.
Tâm Ca có tham vọng vạch trần thái độ ngụy tín của con người, nó mời gọi mọi
người cùng trực diện cõi Tâm của mình mà đừng giả trá quanh co. Tâm Ca khởi đầu
một nẻo đường mới của “tân nhạc” Việt Nam, cho nên đã nghiễm nhiên trở thành
một hiện tượng văn nghệ lúc bấy giờ (9).
Bây
giờ, khi hát mười bài Rong Ca, tư duy nghệ thuật của Phạm Duy vẫn tiếp nối
phong cách Tâm Ca ở tính cách hướng nội và ý hướng điều hợp con người. Tâm thức
người nghệ sĩ vượt lên trên những thái độ hẹp hòi, sân hận, thù nghịch mà xã
hội Việt Nam đang triền miên chìm đắm trong đó. Đã từ hơn năm trăm năm qua, kể
từ khi dân tộc đánh rơi truyền thống dung hóa mà lao vào vào đạo học nhị nguyên thì con người Việt Nam trở nên bẩn chật và quay quắt trong sự tha hóa. Con
người bị vây trói giữa những biên giới. Trong tình cảnh như thế, thì cũng như
bao nhiêu thời kì trong lịch sử nhân loại, trăm hoa đua nở, trăm thầy cùng lên
tiếng rao giảng. Tất cả cùng lên tiếng gọi mời yêu thương. Trong muôn lối mời
gọi yêu thương, người nghệ sĩ chọn cách lên tiếng của mình là dùng hình tượng
nghệ thuật. Nguyễn Du thì bảo rằng kiếp phong trần của Kiều và những Kiều trên
thế gian này là do từ cái Tâm còn chưa tỉnh thức cho nên cứ “ma đưa lối quỉ đưa
đường, cứ tìm những chốn đoạn trường mà đi”, rồi nên cái nghiệp đoạn trường
suốt mười lăm năm. Phạm Duy thì nghĩ rằng tình thương yêu ở chiều kích vũ trụ
sẽ giúp hóa giải những oan khiên ở một góc địa cầu đó.
Quãng
cách ba mươi năm có cộng thêm vào đó sự kinh lịch của tuổi tác của tác giả,
khiến Rong Ca mang dáng vẻ những chiêm nghiệm về lẽ đời. Những cảm thức nội tâm
của những hiền giả xưa nay thường vẫn chỉ phả vào những trang kinh sách, hoăc
những triết tụng. Đưa nhạc lại gần triết lí như Rong Ca là một táo bạo. Nhưng
đó là nghệ thuật theo nghĩa đẹp nhất của nó là làm mới và làm đẹp thế giới hiện
thực.
Rong
Ca ra đời năm 1988. Đặt trong toàn khối tác phẩm của Phạm Duy, Rong Ca là sự
tiếp nối của những bài Tâm Ca ở một bối cảnh khác. Đặc biệt là trong hoàn cảnh
ra đời của nó, dù tác giả có trăm điều “trông thấy mà đau đớn lòng”, tấm lòng
nhân hậu của người nghệ sĩ đã vươn lên tầm cao khỏi những chấp trước của nhân
thế. Người nghệ sĩ trong Phạm Duy đã dọn mình đi vào cõi lớn, vứt bỏ lại sau
những eo xèo của tình đời và sự nghiệt ngã của thân phận riêng chung. Rong Ca
là một dấu ấn về chiều sâu và sức trẻ của tâm hồn Phạm Duy.
Trước
sau Phạm Duy vẫn là một nghệ sĩ với
tất cả những hàm ý tốt đẹp của từ ngữ. Ông đến với đời bằng tiếng hát yêu
thương. Cả sự nghiệp ông là những tiếng ngợi ca tình yêu con người trong những
cảnh đời khác nhau. Rong Ca đã nâng cảm thức về tình yêu lên một chiều cao mới:
hát về tình yêu trong một không gian rộng và thời gian của vô cùng. Ở đó, những
được mất hơn thua của nhân gian sẽ đều bé mọn.
Đoàn Xuân Kiên
(Thế Kỷ 21, số 87 (th.7/1996), tr. 51-56)
(1) Tên một tựa bài hát của Phạm Duy
(2) Biệt danh do Văn Cao tặng Phạm
Duy vào những năm 1940 khi ông hành nghề ca sĩ lưu động từ Bắc vào Nam
(3) Bài thơ dài Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều có một nhân vật kì dị, chỉ
im lặng từ đầu đến cuối bài, nhưng là một người chứng kiến hết mọi diễn biến
tâm tình, và có lẽ rất thấu hiểu thân phận người Cung Nữ.
(4) Xem:John Bowlby,Child Care and the Growth of Love. London:
Penguin, 1953 và The Making and Breaking
of Affectional Bonds.London: Tavistock/Routledge, 1979.
(5) Tên một bức tranh nổi tiếng của
Pablo Picasso
(6) Mượn ý câu thơ Không Lộ đời Lý: Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh, Trường
khiếu nhất thanh hàn thái hư (Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng, Một tiếng kêu
vang lạnh cả trời)
(7) Thơ hát nói tương truyền là của
Cao Bá Quát
(8) Thơ Quang Dũng
No comments:
Post a Comment