Trịnh
Công Sơn
một góc nhìn khác
Đoàn
Xuân Kiên
Tháng Tư 2001 là
ngày Trịnh Công Sơn từ giã chúng ta. Từ bấy đến nay, giới văn hoá trong nước và
hải ngoại đều đã dành cho anh những truy niệm thật trân trọng. Các tạp chí đứng
đắn đều đã ra số đặc biệt về Trịnh Công Sơn với nhiều hồi ức bè bạn của một lứa
thanh niên trí thức lớn lên cùng với anh, cùng chia sẻ những tâm tình buồn vui
của thế hệ. Đáng kể là một vài tập biên khảo giá trị về Trịnh Công Sơn cũng đã
ra đời góp phần tìm hiểu về người nhạc sĩ tài danh. Mặc dầu vậy, Trịnh Công Sơn
vẫn như một ẩn số nghệ thuật thách đố người thưởng ngoạn qua nhiều thế hệ.
Trước năm 1963, Trịnh Công Sơn đã có hai bài hát được công chúng
biết đến (Ướt Mi và Thương Một Người). Nhưng có thể nói
là năm 1963 đánh dấu cho sự xuất hiện của “hiện tượng Trịnh Công Sơn”. Ở miền
trung, học sinh trường trung học Đà Nẵng và Huế đã chuyền tay những bài hát của
Trịnh Công Sơn như Nhìn những mùa thu đi, Lời buồn thánh, Chiều
một mình qua phố… Từ lời hát đến giai điệu là những dấu hiệu mới, rất mới đối
với thế hệ mới lớn lúc đó. Sinh hoạt văn nghệ những năm 1960 đã nghiễm
nhiên hình thành một thời mới với những diễn đàn văn học nghệ thuật mới
như Sáng Tạo, Văn Nghệ. Song hành với sinh hoạt văn học
nghệ thuật là những diễn đàn học thuật như tạp chí Đại Học (Huế)
và Thế Kỷ Hai Mươi, Mai (Sài Gòn). Không khí chung
là một sự vươn tìm một ngôn ngữ mới cho văn học nghệ thuật mà cốt lõi là sự
vượt thoát khỏi thế hệ “văn nghệ tiền chiến”. Thành tựu lớn của văn nghệ ở giai
đoạn này chính là sự hình thành một ngôn ngữ mới cho văn nghệ “hậu chiến”. Ngôn
ngữ thơ – nói riêng – và văn học – nói chung- đã thay đổi: một thế hệ thanh
niên trí thức say mê lao vào cuộc tìm kiếm ngôn ngữ mới cho thơ, văn. Ngôn ngữ
thơ tượng trưng, siêu thực, hội hoạ trừu tượng, tiểu thuyết mới… tất cả đều
quyện vào nhau làm thành một tư trào văn nghệ mới tại miền Nam lúc bấy giờ.
Trong khung cảnh chung ấy, ngôn ngữ âm nhạc những năm đầu của
thập niên 1960 chừng như vẫn tiếp tục con đường cũ, như thể vẫn nối dài một thế
hệ âm nhạc tiền chiến. Bởi vì thật ra thế hệ nhạc sĩ thời ấy vẫn là những người
đã khởi đầu sự nghiệp họ từ thời tiền chiến mà thôi. Cho nên những bài hát của
Trịnh Công Sơn đã sớm trở thành “hiện tượng” trong sinh hoạt văn nghệ miền Nam,
bắt đầu là từ những thành phố miền trung (Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn) rồi nhanh
chóng bay vào Sài Gòn. Trong vòng hai năm 1965 và 1966, Trịnh Công Sơn đã ra
mắt công chúng nghệ thuật Sài Gòn tại sân cỏ trường Văn Khoa, rồi Quán Văn. Rất
mau chóng, thế hệ trẻ đã đón nhận anh như một đại biểu cho thế hệ của mình, vì
anh đã hát lên những tiếng hát mới, bằng một ngôn ngữ rất mới trong âm nhạc
thuở ấy. Một dấu mốc lớn trong sự nghiệp sáng tác Trịnh Công Sơn là sự xuất
hiện tập ca khúc Ca Khúc Trịnh Công Sơn (nxb. An Tiêm, 1967).
Những bài hát trong tập ca khúc này được xếp đặt xoay quanh bốn chủ đề: “Thần
Thoại – Quê Hương – Tình Yêu – Thân Phận”. Từ đây, ca khúc của Trịnh Công
Sơn sẽ nhất quán xuyên suốt quanh những chủ đề này.
Nhiều người đã nói đến
chất thơ trong lời ca của Trịnh Công Sơn. Chất thơ ấy là tổng hợp của những
hình tượng thơ và cấu trúc từ vựng tân kì mà Trịnh Công Sơn đã tiếp thu từ ngôn
ngữ văn học nghệ thuật Pháp hiện đại. Ngôn ngữ trong lời hát như thế không phải là thứ ngôn từ quen thuộc của văn học thế hệ Thơ Mới (1932-1945) trước kia. Cho
nên muốn cảm được, muốn hiểu được tính cách ngôn ngữ lời ca của Trịnh Công Sơn
thì cần phải có một số vốn văn học phương tây hiện đại.
Tuy nhiên, nếu chỉ là
một ngôn ngữ mới thôi thì cũng chưa hẳn đã đủ để trở thành một Trịnh Công Sơn
như thế. Các ca khúc của anh còn mang đậm tính cách đại biểu cho những tâm cảnh
của một thế hệ. Thế hệ lớn lên sau 1954 tại miền Nam sớm tiếp nhận những tư
trào triết học và văn học nghệ thuật tây phương đương thời: triết hiện sinh,
thơ và hội hoạ trừu tượng, đa đa, siêu thực, tư trào chủ nghĩa cấu trúc, tiểu
thuyết mới, rồi triết lí thiền Phật giáo… Những tư trào đó đã ảnh hưởng rất
nhiều đến lối sống lối nghĩ của một thế hệ. Ai đó đã nói rất đúng, rằng “Sơn
hát với những ưu tư thầm kín nhất của tuổi hai muơi chúng tôi, với những tư duy
của thế hệ trẻ chúng tôi và với một cách đặt vấn đề – biệt ngữ của phong trào
học triết học siêu hình thời ấy – khác với những nguời nhạc sĩ đi trước.” (1)
Về mặt này, Trịnh Công Sơn có thể xem là một thành tựu văn hoá của thế hệ những
người làm văn nghệ những năm 1970.
Thế hệ thanh niên ấy cùng lớn lên, cùng chạm mặt với cuộc chiến
tranh mới đã trở thành ác liệt kể từ sau năm 1963. Những tâm tình nhiều trăn
trở dằn vặt của một thế hệ thanh niên miền Nam đã phả vào từng bài hát của
Trịnh Công Sơn. Anh nghiễm nhiên trở thành một đại biểu hàng đầu cuả thế hệ trí
thức trẻ Việt Nam trong thời chiến tranh vừa qua.
Nói đến tâm tình của một thế hệ trong thời chiến tranh vừa qua,
không thể không nhắc đến những bài hát của Trịnh Công Sơn mà các nhà bình luận
thường gọi là “nhạc phản chiến”. Cách gọi tên này mang hậu ý chính trị và không
phản ảnh đúng những nội dung và chủ định của người nhạc sĩ này. Trong số mấy
tập bài hát mang tên Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, Ta
Phải Thấy Mặt Trời, Dựng Lại Nhà Dựng Lại Người, Phụ Khúc Da Vàng ra đời liên tiếp từ
những năm 1967 đến năm 1974, chúng ta thấy những diễn biến tâm tình rất
thực của một lớp thanh niên trí thức vào lúc ấy. Đó là những tiếng hát xuất
phát từ đáy lòng thầm kín của mỗi chúng ta trước thời thế, chứ không phải là
những tiếng hát sặc mùi “hô khẩu hiệu” như rất nhiều bài hát của phong trào
phản chiến, hay phong trào “hát cho dân tôi nghe” lúc đó. Nó mang nhiều màu sắc
trầm tư, thậm chí siêu hình. Về mặt nghệ thuật ca khúc thì mảng bài hát này rất
phong phú về cấu thức câu nhạc: câu nhạc thường dài, giai điệu của những bài
hát thường có hai thể chính: những khúc hát trầm tư (như bài “Phúc âm buồn” hay
“Vết lăn trầm”) thường là những khúc blues não nuột; những bài khác theo thể
hành khúc thì lại đậm tính cách dân tộc (âm hưởng ngũ cung), tạo nên dáng vẻ
độc đáo của hành ca Trịnh Công Sơn trong mảng những bài ca thời thế này.
Trịnh Công Sơn đã sáng tác liên tục trong non bốn thập niên,
nhưng thời sung sức nhất của anh là trong hai thập niên 60 và 70. Đó là thời kì
nằm gọn trong một thời chiến. Những bài hát của anh đã gói ghém những tâm sự
của thế hệ. Rồi ra, khi những xúc động và những thành kiến của một thời sẽ lắng
xuống, sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn sẽ tái hiện trong tâm khảm người
thưởng ngoạn như là một tổng thể những tâm cảnh của một thế hệ lớn lên trong
một thời giông bão, ở đó có những khắc khoải thao thức về thời thế, những ước
vọng thầm kín hay những tiếng nói phẫn nộ của tâm thức về thân phận riêng
chung… Những tâm cảnh đó mang sắc thái rất khác với những thế hệ đi trước, mà
sẽ đẫm tính cách nội tâm. Nói khác đi, tác phẩm của anh sẽ tồn tại như một tổng
hợp hai mảng ca khúc quyện hoà vào nhau:
1.
Những khúc hát tâm
tình thường mang sắc màu nhợt nhạt, tàn phai, đổ vỡ, những khúc điệu blues vật
vã trong tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn (1967) hay những giai điệu
trữ tình thường chỉ đơn giản về khúc điệu nhưng lại có lời ca rất giàu hình
tượng mới mẻ. Đó là giai đoạn của những ca khúc trong các tập ca khúc Như
cánh vạc bay và Cỏ xót xa đưa. Về sau, mảng những bài hát
tâm tình này sẽ trườn về cõi an nhiên thanh thoát của cõi thiền để tạo nên
những ca khúc rất đặc sắc. Đó là những ca khúc trong hai tập Khói trời
mênh mông và Tự tình khúc (1973);
2.
Những bài hát mà chúng
ta có thể gọi chung là những “bài ca ý thức” của anh là những bài hát sâu sắc
về ý nghĩa, phong phú về tính cách âm nhạc dân tộc. Những ca khúc này được in
lần lượt trong các tuyển tập Ca Khúc Da Vàng (1967), Kinh
Việt Nam (1968), Dựng Lại Nhà Dựng Lại Người (1970), Ta
Phải Thấy Mặt Trời (1971), Phụ Khúc Da Vàng (1972).
Sinh thời, Trịnh Công
Sơn đã trải qua trọn một bi kịch của người nghệ sĩ trong một thời thế mà chính
trị đã rất tham lam, chỉ muốn chỉ huy văn hoá. Trong thời thế đó, Trịnh Công
Sơn đã hát về tâm tình trung thực của mình và của thế hệ mình. Thế lực chính
trị ở cả hai miền trước 1975 đều không chấp nhận những tiếng hát của lương tâm
như thế. Đó là lý do vì sao sau 1975, mảng bài ca ý thức của Trịnh Công Sơn
không được phép lưu hành. Một số khá nhiều những bài hát đó vẫn có thể rất
“thời sự” ngay lúc này. Hãy hát lại thử một bài như “Huế Sài gòn Hà nội” hay
“Chưa mòn giấc mơ”, có phải nó vẫn là một ước vọng rất đương thời hay không? Có
phải hôm nay đây, chúng ta vẫn còn là những “Vết lăn trầm” hay không? Có phải
bây giờ đây đời sống Việt Nam vẫn còn là “Phúc âm buồn”, và có phải “Gia tài
của mẹ” vẫn còn những lũ bội tình hay không?
Một nghịch lí khó hiểu
là hiện nay lượng bài hài hát của Trịnh Công Sơn được phổ biến trong công chúng
chỉ là một nửa những nội dung lớn của ca khúc TCS, trong khi một nửa kia, nửa
của những ca khúc khơi dậy ý thức về quê hương, về thân phận thì vẫn còn trong
vòng phổ biến rất hạn hẹp -nếu không nói là bị khuất lấp. Đấy vẫn chưa phải là
một cách nhìn nhận đúng đắn chỗ đứng của người nhạc sĩ tài hoa này.
Anh đã thung dung từ
giã cõi vô thường ngày 1-4-2001, nhưng đối với chúng ta – ít ra cũng là đối với
một thế hệ văn học nghệ thuật Việt Nam tại miền Nam từ 1963 trở về sau – anh
vẫn còn đấy, lừng lững một vóc dáng con nhạn lẻ “bên đời hiu quạnh”, vẫn “một
cõi đi về”. Anh vẫn còn quanh đây để chia sẻ những băn khoăn trăn trở của thế
hệ về thân phận bi kịch. Bi kịch của thân phận người nghệ sĩ như Trịnh Công Sơn
xem ra cũng nhiều đau xót như thân phận dân tộc chúng ta khi bước qua ngưỡng
cửa của thế kỉ hôm nay đấy chăng?
Đoàn Xuân Kiên
(Nguyệt san Thông Luận (th. 4/2002)
(1) Thái Kim Lan, “Nơi
vùng ưu tư thành tiếng du ca”:
No comments:
Post a Comment