Thư về Phố Tịnh
Những nhân vật của tôi
Ngày...
tháng... năm...
Phố Tịnh thương mến,
Có nhiều khi tôi thấy mình nhớ quay quắt
về những ngày tháng ở cồn phố tịnh ấy. Ở đấy có một quãng đời ngắn ngủi nhưng
nhiều kỉ niệm. Những con người thực quanh tôi trong thời gian ấy cũng có thể gọi là những
nhân vật của một thiên truyện nào đó chưa viết. Nhân vật của tôi có thể là một cô bé hiền
lành đến độ nhút nhát tên là Kiêm Hà của lớp 7 năm ấy. Kiêm Hà và các bạn cùng
lớp thật là dễ thương vì sự hồn nhiên ngây thơ trong một khung cảnh cuộc sống
xô bồ bát nháo chung quanh. Một hôm, tôi nhìn những đôi mắt tròn như những hòn
bi ấy mà hát thành bài “Rồi một mai” theo thể ballad, trong đó có những câu thế
này:
Rồi
một mai em sẽ lớn khôn, một sớm mai tiếng thở chợt dài
Hàng
phượng đìu hiu trong sân, bao năm qua đi lá vẫn rơi vàng
Bài
vở ngày nào có nói gì đâu những đắng cay phận người
Em
bước ra đi bơ vơ, có nghĩa chi đâu sách đèn...
(“Rồi một mai” - Phượng trong thành phố ấy. Phố Tịnh
1972)
Nghe nhạc: https://www.youtube.com/watch?v=kNH9U524Xik
Nghe nhạc: https://www.youtube.com/watch?v=kNH9U524Xik
Cũng những đôi mắt bi ve của Kiêm Hà và
các bạn đã ngước trông lên hàng phượng hai bên lối sân để sống mãi trong tôi
màu xanh tư mã của những tà áo dài trắng học trò những ngày cuối năm học đầu
tiên ấy.
Trên áo em hoa cài nụ thắm hôm nào còn ngượng
ngùng
thả gió đưa bay
thả gió đưa bay
Đã
có những chiều nhạc vàng réo rắt với hàng phượng hồng
Đã
có những sớm mai nào áo xanh...
(“Phượng
còn xanh” - Phượng trong thành phố ấy.
Phố Tịnh, 1972)
Nếu Kiêm Hà là nhân vật của sự ngây thơ
trong sáng tuổi học trò thì Hồng Phúc và Cúc Hoa là hiện thân sự nát nhàu của
tuổi trẻ giữa khung cảnh thị trấn vắng lặng buồn hiu nhưng nhiều sóng ngầm.
![]() |
Bìa tập nhạc Phượng trong thành phố ấy do Trần Văn Thảo (hoc sinh TPH) vẽ |
Cúc Hoa chưa hề học lớp Quốc Văn của
tôi, nhưng tôi thấy lạ là thỉnh thoảng em ghé lại nhà trọ của tôi chuyện trò những
chuyện vui buồn trong ngày. Em kể cho tôi đủ thứ chuyện tâm tình của tuổi mới lớn,
những buồn giận cùng những hân hoan của nhóm bạn học cùng lớp em trong ngày. Rồi
bẵng đi rất lâu, không thấy em ghé lại nhà tôi như trước. Ngày 30/4, em lúc ấy
đang học Lớp 11 thì bỏ ngang, sang Cần Thơ công tác trong Phòng Văn Hoá Thông
Tin tại thành phố Cần Thơ.
Tình cờ một hôm, tôi lang thang buổi chiều
trên phố vắng tìm quán trọ thì nghe tiếng người gọi tên mình đâu đó. Cúc Hoa đang từ sở làm trên đường về nhà. Em
mời tôi ghé qua nhà. Căn nhà lá xơ xác trong một ngõ hẻm trông thật tạm bợ, tư
bề gió lộng. Chúng tôi hỏi thăm nhau về cuộc sống từ sau ngày dâu bể ấy. Do mối
quan hệ gia đình, sau ngày 30/4, Cúc Hoa bỏ học để đi làm biên tập đài phát
thanh địa phương. Cúc Hoa tâm sự rằng em thấy nghẽn lối ra sau ba bốn năm làm
việc với những khẩu hiệu, những bài viết cổ động lòng người đến nhàm chán. Lại
thêm một lần gãy đổ hôn nhân vì người chồng trẻ qua đời đường đột. Tôi nhìn vào
mắt Cúc Hoa và nhận ra vẻ mệt mỏi quá sớm của một người tuổi trẻ. Tôi nói với
Cúc Hoa rằng tôi xót xa cho những vốn liếng nhân văn mà Tống Phước Hiệp cho em
bây giờ trở nên lãng phí quá, hãy quay trở về khung cảnh nhà trường, tìm lại
môi trường thân thiết với con người hiền lành.
Vốn đau khổ của em như thế đã đủ làm dậy chất men tâm hồn để sống với những
ngày tháng lâu dài về sau.
Chia tay Cúc Hoa lần ấy tôi không gặp lại em lần
nào. Bây giờ em ở đâu, Cúc Hoa thương mến? Bao nhiêu năm qua rồi, em có được sống
thoả những ước mơ của đời mình thời tuổi trẻ không, hay vẫn kẹt vướng trong ngõ
cụt của đời mình?
Sau cuộc biến tang thương, tôi trải qua
những năm tháng lang thang vì bị vây khổn.
Tôi gặp lại Hân Nhi trong một ngày tàn tạ như thế. Lúc ấy em đang chờ được
xếp công tác sau khi học xong bốn năm đại học sư phạm. Hân Nhi là một học sinh
lớp C đầu tiên của tôi tại Tống Phước Hiệp. Em và các bạn cùng lớp đã từng chia
sẻ với tôi những ngày tháng sôi động của tuổi trẻ. Từ những chuyện nhỏ như một
đề thi in ronéo phát ra tại hôm thi môn Quốc Văn, đến những mẩu tâm tình giữa
giờ hoặc những giờ gọi là sinh hoạt hiệu đoàn đậm đặc những bàn luận về mọi thứ
chuyện trên đời. Đó là một khung cảnh gia đình trong đó tôi sống cùng học trò
những thao thức, những ước mơ của một thế hệ tuổi trẻ.
Sau năm học đầu tiên ấy,
tôi không còn theo lớp C này nữa. Quan hệ gắn bó giữa thầy trò chúng tôi về sau
chỉ đậm nét nhất là qua việc thực hiện một Phòng Triển Lãm về bản sắc văn hoá
Việt tại miệt vườn. Lớp C đảm nhận may một loạt y phục truyền thống của người
Việt từ thời kì Đại Việt về sau. (Tôi phải cất đi thời kì Văn Lang vì ngại có
người dèm pha rằng tôi báng bổ tiền nhân, cho ông bà mình đóng khố, đội mũ hình
lông chim...) Trong một ngày hội tết linh đình của trường năm 1972 ấy, phòng
triển lãm thực sự là tinh hoa của trí sáng tạo tuổi trẻ Tống Phước Hiệp. Niềm
say mê hào hứng ấy thể hiện qua nguyên một phòng dành cho bích báo và báo tập
do học sinh các lớp thực hiện. Phòng triển lãm các nét đặc sắc của miệt vườn
qua các hạng mục triển lãm về các giống lúa Vĩnh Long, các loại gỗ Vĩnh Long,
cây trái miệt vườn. Và phòng triển lãm y phục Việt. Những ngày tháng sôi động ấy
đáng tự hào lắm, vì nó là công trình của trí tuệ và nhiệt tâm tuổi trẻ Tống Phước
Hiệp. Hân Nhi của tôi chắc cũng đem theo niềm tự hào ấy vào trường sư phạm ba
năm sau đó.
Gặp lại nhau trong tình cảnh cùng đường,
Hân Nhi cho tôi nghe nỗi hoang mang hồi hộp của em trong những ngày chờ quyết định
bổ dụng sau khi đã mãn khoá học cả năm trời rồi. Các bạn cùng khoá thì đã ổn định
công tác hết cả. Hồi hộp chỉ là vì cái lí lịch thôi, chứ khả năng và nhiệt huyết
của em thì tôi không nghi ngờ gì. Hân Nhi cho biết là ba em, một sĩ quan cảnh
sát, lúc ấy còn đang trong trại cải tạo ở một nơi rất xa. Lớn lên giữa những đổ
vỡ phân li, cô bé không dám mơ nghĩ về tương lai. Tôi và Hân Nhi ngồi rất lâu
bên li cà phê bên đường, cạnh trường đại học sư phạm. Đôi khi cười với nhau như
chế giễu những ảo mộng cuộc đời của nhau. Từ hôm đó, tôi gặp Hân Nhi thường
ngày. Sau những thảng thốt buổi đầu, những ngày sau đó Hân Nhi chủ động nhắc lại
tôi nghe những dư âm ngày tháng cũ ở trường Tống Phước Hiệp. Em kể tôi nghe về
những người bạn học năm xưa, giờ đây tan tác mọi phương, vốn chữ nghĩa văn
chương không vực nổi nhiều phận người. Tôi nghĩ đến Cúc Hoa với nỗi cảm thương
tương tự.
Tôi nghe Hân Nhi kể chuyện thật lưu
loát, đôi khi hăng say nhưng vẫn đằm thắm. Mỗi lần gặp nhau tôi lại có thêm một
mảnh ghép về tâm cảnh cô bé học trò cũ. Hân Nhi vẫn là cô bé suy nghĩ sắc và
nhanh, vẫn lạc quan yêu đời như ngày xưa cho dẫu ngày hôm nay có bấp bênh và
nhiều buồn lo. Hân Nhi còn đủ sức mạnh để lo giùm tôi về cái tương lai đen ngòm
của anh giáo trẻ đang đi bên em. Rất tự nhiên, thầy trò chúng tôi chia sớt cho
nhau nỗi ngậm ngùi cùng niềm hân hoan.
Hai thầy trò như cùng sống lại tâm thế tự do mà ngày trước tôi có lần nói đến trong một giờ học. Tôi không bao giờ quên những giờ phút đẹp đẽ ấy, vì nó cho tôi lại những hào hứng mà cuộc sống chung quanh đã khiến nó khuất lấp. Những ngày ấy, tôi thấy không khí nồng ấm của những giờ học Quốc Văn tràn về lại trong mình. Hai thầy trò giờ đây đang sống với những tâm cảnh lung linh khác nhau của cuộc đời thực, chứ không phải chỉ là những trang sách vở xa xôi, huyền hoặc. Hiện thực bi thương có thể nuôi lớn tâm tình con người chứ có phải đâu chỉ là vùi dập, cùng khốn. Tôi nghĩ đến tâm sự của một người xưa: “Cùng một lứa bên trời lận đận, Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau”.
Trước ngày em chia tay lên đường nhận nhiệm sở, chúng tôi gặp lại nhau để trao gửi những nguyện ước tốt lành cho những ngày sắp tới. Em nói đến một địa danh Chợ Bưng khỉ ho cò gáy nào đó, như thể một chỗ dựa mong manh cho thân gái dặm trường của một thời bất trắc. Tôi dõi theo bóng em mất hút dần phía xa, lòng thấy xót.
Hai thầy trò như cùng sống lại tâm thế tự do mà ngày trước tôi có lần nói đến trong một giờ học. Tôi không bao giờ quên những giờ phút đẹp đẽ ấy, vì nó cho tôi lại những hào hứng mà cuộc sống chung quanh đã khiến nó khuất lấp. Những ngày ấy, tôi thấy không khí nồng ấm của những giờ học Quốc Văn tràn về lại trong mình. Hai thầy trò giờ đây đang sống với những tâm cảnh lung linh khác nhau của cuộc đời thực, chứ không phải chỉ là những trang sách vở xa xôi, huyền hoặc. Hiện thực bi thương có thể nuôi lớn tâm tình con người chứ có phải đâu chỉ là vùi dập, cùng khốn. Tôi nghĩ đến tâm sự của một người xưa: “Cùng một lứa bên trời lận đận, Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau”.
Trước ngày em chia tay lên đường nhận nhiệm sở, chúng tôi gặp lại nhau để trao gửi những nguyện ước tốt lành cho những ngày sắp tới. Em nói đến một địa danh Chợ Bưng khỉ ho cò gáy nào đó, như thể một chỗ dựa mong manh cho thân gái dặm trường của một thời bất trắc. Tôi dõi theo bóng em mất hút dần phía xa, lòng thấy xót.
Bây giờ Hân Nhi đang ở đâu? Chợ Bưng hay
Vĩnh Long? Hay một địa danh xa lạ nào ở xứ người? Những người muôn năm cũ của
tôi cũng theo dòng thác lũ của cuộc sống mà phiêu dạt, mà lạc mất nhau đã hơn
ba mươi năm. Lòng tôi vẫn thường lẩn khuất theo ngọn mây tần, bay về cố xứ xa
khơi, hỏi thăm những nhân vật của tôi một thời ngắn ngủi nhưng mãi mãi thường
còn.
Có một nhân vật của tôi đến một lần thật
ngắn ngủi trong thời gian tôi về Tống Phước Hiệp, nhưng sẽ ở lại bền lâu trong
tôi mãi về sau này. Năm 1972 bác Nguyễn Minh Tâm đã già lắm, dễ chừng trên dưới
70. Tuy vậy gương mặt bác luôn quắc thước, hồng nhuận. Cặp mắt lắm khi ánh lên
nét tinh nhanh. Nhờ duyên chữ nghĩa, nhóm bạn chúng tôi chung nhau xuất bản tập
san văn hoá Vượt Thoát. Tôi nghe tên
bác từ khi còn ở Sài Gòn, qua những bản dịch cẩn trọng và lưu loát một số tác
phẩm của Krishnamurti. Năm đó, anh em chúng tôi thường gặp nhau đàm đạo những đề
tài về đạo, về thiền tại cái cốc nhỏ nhắn bác dựng trong khu vườn rộng thênh
thang sau nhà. Sau này, hai bác cháu thường
gặp nhau chỉ để nói chuyện về buông xả, về cái nhìn sự vật quen thuộc quanh ta
lúc nào cũng mới tinh như gặp nhau lần thứ nhất. Có nhiều hôm hai bác cháu, một
già một trẻ, ngồi bên chén trà, yên lặng chẳng nói gì, nhưng thật là sảng
khoái, thanh bình. Sau ngày 30/04, bác
Tâm có một thời gian bị tập trung. Tôi tin là bác không bị tù túng vì những rào
chắn, những bức tường của thế tục. Bác Tâm cho tôi sự vững chãi tâm hồn, về
lòng không sợ và sự yêu cái đẹp. Tôi sống sót qua cơn sóng gió mười năm là nhờ
những vẻ đẹp mà tôi nhận được từ những nhân vật của tôi đấy, Phố Tịnh ơi.
Ở một nơi khác, một cơ duyên khác, Điển đến với tôi
và các em đoàn viên Du Ca Quê Hương (Vĩnh Long) thật tự nhiên như một cơn gió
nhẹ.
Cuối năm 1971, tôi nhận điều khiển đoàn Du Ca. Nhiều
buổi chiều tối, sau những buổi họp mặt tập ca hát, anh em kéo nhau lại Café Đỡ
Buồn ở mé Cầu Công Xi đi ra. Quán là một địa điểm khá đặc biệt: những vách ngăn
các ô chỗ ngồi đều là tranh của Lê Triều Điển. Nhiều khi tôi băn khoăn tự hỏi:
sao lại có người xử tệ với nghệ thuật đến mức đem những bức tranh sơn dầu thật
đẹp ra làm vách nhà như thế. Hỏi ra mới biết tác giả những tấm tranh lớn nhỏ
kia là của con bà chủ quán vui tính. Tôi nhủ thâm rằng ông nghệ sĩ này thật là có
hiếu, đem tranh của mình tô điểm cho quán văn nghệ của gia đình thì không còn
gì quý hoá hơn!
Khi đoàn Du
Ca tổ chức buổi trình diễn ra mắt tại Phòng Khánh Tiết trường Tống Phước Hiệp,
Điển có đến dự, và chúng tôi thân quen ngay trong buổi gặp mặt đầu tiên ấy.
Chàng hoạ sĩ lúc ấy đang là quân nhân ở Cần Thơ nhưng lại có mối quan hệ bạn bè
rộng rãi với anh em văn nghệ miền Tây. Từ duyên gặp gỡ của du ca, tôi và Điển
còn nhiều sinh hoạt văn nghệ từ đó và còn lâu về sau, khi tôi đi xa. Điển chính
là người thực hiện bìa cho hai tập san Vượt
Thoát (Cần Thơ, 1972) và Khai Nguyên
(Vĩnh Long, 1973) do tôi chủ biên. Anh cũng tham gia phụ trách mĩ thuật bìa
sách cho một loạt các ấn phẩm thơ, truyện của nhà xuất bản Con Đuông do các bạn
văn nghệ miền tây thực hiện trong thời gian ba năm 1973-1975. Biết tôi đang sưu
tập ca dao miệt vườn, anh tạo cơ hội cho tôi gặp mặt anh em bạn bè tại hội quán
Góp Gió (Cần Thơ) để nói về công trình này. Điển cũng chính là người tạo cơ
duyên cho tôi được gặp bác Tâm.
![]() |
Một số bìa sách báo do Lê Triều Điển vẽ |
Bên cạnh những sinh hoạt sách báo, Điển còn có nhiều
sáng tạo trong lĩnh vực riêng của anh: hội hoạ. Sức sáng tạo của Điển thật
phong phú, và thể hiện qua nhiều chất liệu tranh khác nhau, trong đó phải kể đến
tranh sơn dầu trên lụa, và nhất là hai chất liệu không giống ai lúc đó là tranh
mỏ hàn trên ván và trên các tấm foam
trắng. Trong thời gian hai năm qua lại Cần Thơ sinh hoạt với các bạn, tôi được
xem khá nhiều tranh sơn dầu trên lụa của Điển thật đặc sắc, tân kì, rất khác với
tranh lụa truyền thống. Đây chỉ là một thử nghiệm mới có lẽ vì sẵn vật liệu
trong tay chứ tranh sơn dầu vẫn là thể loại quen tay của anh trong thời gian
này. Phong cách tranh luạ của Điển cách tân rất xa so với tranh lụa của Ngy Cao
Uyên thuở ấy. Nét bút -dẫu là bút mỏ hàn- của Điển thường phóng túng, lạc
phách, lắm khi bạo liệt như thể hắt ra những cảm xúc nóng và mạnh. Tranh của Điển
làm tôi nhớ đến những nét cọ mãnh liệt của những lọn mây và sóng lúa trong
tranh Van Gogh trước kia.
Sau 1975, trong ý hướng tìm tòi chất liệu
cho tranh và tượng, anh có những thử nghiệm với chất liệu dân gian địa phương:
đất sét Cổ Chiên. Phát hiện bất ngờ nhưng rất đúng lúc đã đem lại một lối thoát
mới và có thể bền lâu cho hoạt động nghệ thuật tại miệt vườn. Điển sẽ ở lại rất
lâu với chất liệu đất sét rất phong nhiêu của vùng đất Cổ Chiên. Sức sáng tạo của
người nghệ sĩ ấy không hề cạn kiệt, dẫu là trong những lúc khó khăn khắc nghiệt
trong suốt thập niên 1970. Găp lại anh ở tuổi già, Điển vẫn nguyên vẹn nụ cười
nhẹ thoảng, và tranh của anh vẫn mạnh mẽ, đặc biệt là những công trình gốm mĩ
thuật của Điển là những bảo chứng đặc sắc cho phong cách mĩ thuật miệt vườn của
một thời hiện đại. Tôi nghĩ tên tuổi của Lê Triều Điển và những công trình gốm
mĩ thuật sẽ gắn kết với quê hương Cổ Chiên.
Nếu đời mình là một vở kịch dài thì những
người quanh tôi là những nhân vật đã góp phần làm nên vở kịch đời ấy. Năm năm của
một đời người không phải là dài, nhưng năm năm ấy là những "khúc dạo đầu của
một giấc mơ một đời người" -theo cách nói của ai đó khi nghĩ về Hải Phòng
của một Văn Cao. Tôi rời trường Tống Phước Hiệp trong một tình huống rất bất đắc
dĩ, phải xa quê miệt vườn nhưng lòng không hề nguôi quên những nhân vật một thời.
Những nhân vật của tôi thoắt biến thoắt hiện trong những chớp mắt nhìn lại như
thế.
Hẹn em thư sau,
Đoàn
Xuân Kiên
No comments:
Post a Comment