Thư về Phố Tịnh
Ngày mới
Ngày... tháng... năm...
Phố
Tịnh thương mến,
Hôm
tôi về Vĩnh Long nhận nhiệm sở trời thật nắng.
Tôi và Vĩnh đến khá sớm, nhưng chưa vội vào trường. Chúng tôi ngồi xe
lôi vào phố.
Đấy
là lần đầu tôi đến thị xã này cho nên cần tận hưởng cái thú tìm thấy cảm giác mới
mẻ của một người khách từ nơi xa đến. Ngày còn ở Sài Gòn, cái tên Vĩnh Long đối
với tôi chỉ là một cái tên, không cho tôi một ấn tượng gì ngoài một vài hiểu biết
sách vở về Long Hồ Dinh, về Phan Thanh Giản... Mãi đến hôm nhận giấy bổ nhiệm
tôi mới lục tìm quyển sách Vĩnh Long xưa
và nay của Huỳnh Minh để hiểu thêm về địa danh này. Vĩnh và tôi, hai đứa chọn
Vĩnh Long rất thoải mái, chỉ vì ở đây có hai chỗ cho môn Quốc Văn, một ở Tống
Phước Hiệp, một ở Thủ Khoa Huân. Thế thôi. Vào những ngày ấy tôi cứ để mọi thứ
đến với mình tự nhiên, như là ngẫu nhiên thôi. Vả chăng, rời khỏi Sài Gòn lúc đấy
thì nhiệm sở nào cũng đại khái như nhau thôi. Đâu cũng là đất nước quê hương cả
thôi mà...
Từ
xe đò bước xuống, thị xã nhỏ bé hiện ra trước mắt tôi với nhiều bí ẩn. Phố sá
nhỏ nhắn, thưa vắng, nghèo nàn nhưng mà rộn ràng lời nói tiếng cười.
Khi
chiếc xe lôi ì ạch leo lên dốc Cầu Lộ, hai chúng tôi thả bộ theo con đường dốc
đi tìm căn nhà Vĩnh nhờ người tìm thuê sẵn từ mấy hôm trước đó. Nguyên là ông
thân của Vĩnh có một anh lính trẻ trong đơn vị người gốc Vĩnh Long nên có nhờ
anh tìm hộ căn phòng trọ cho hai chúng tôi. Khi vào đến nhà, chúng tôi chuyện
trò qua quýt cùng chị chủ nhà, đóng tiền thuê phòng, rồi trở ra tiếp tục dạo
quanh thị xã. Chúng tôi đi qua khu miếu nằm tròn lọt thỏm giữa một khu dân cư,
qua một ngôi trường chỉ gồm mấy dãy nhà trệt xây cất sơ sài, có tên Long Hồ. Những
con đường nhỏ hẹp, nhiều đoạn không có vỉa hè, cỏ mọc sát đường.
Chúng
tôi tìm đến nhà một người được giới thiệu trước là một vị “thổ công” ở đất Vĩnh
Long. Chủ nhân là một bác giáo già đã hưu trí. Bác là một trong số những nhà
giáo từ lớp xưa còn lại. Bác kể chúng tôi nghe những kỉ niệm trong đời nghề dạy,
những thăng trầm của trường học trong thị xã từ thời tây cho đến giờ. Bác kể
chúng tôi nghe những háo hức lúc bác mới vào nghề dạy học, những mơ ước được cống
hiến cho tuổi trẻ. Có thời bác còn mở trường riêng để thi thố những hoài bão của
mình. Đến nay đã xấp xỉ thất tuần mà tinh thần bác vẫn sảng khoái, hứng khởi mỗi
khi nói chuyện về nghề dạy học. Bác nói chuyện mình mà nghe như bác nói lời nhắn
nhủ của một thế hệ đi trước gửi lại thế hệ những người trẻ là chúng tôi. Ngày
còn ở Sài Gòn, có những khi nóng lòng vì những trì trệ của việc đào tạo giáo sư
Việt Văn đương thời, tôi và hai người bạn đồng khoa là Huỳnh Phan (tác giả Câu chuyện thầy trò, nay đã quá cố) và
Vĩnh hẹn nhau là sẽ trở lại trường Đại Học Sư Phạm để làm mới lại nó, vì lúc đó
chương trình đạo tạo của Ban Việt Hán thật là thảm hai: không có định hướng
giáo dục rõ ràng, chương trình học nghèo nàn và thiếu sót nghiêm trọng mảng
giáo dục học và phương pháp học. Nay được nghe tâm sự một nhà giáo đã về hưu,
lòng tôi chùng xuống để nghe ra tiếng trầm của tâm sự một thế hệ, nhưng rồi tôi
cũng nghe ra lời giục giã của tiếng kèn đồng thúc quân để cho một ngày mai. Hai
thế hệ cách xa nhau nhưng hoài bão không khác.
Chúng
tôi lưu lại nhà bác giáo Cẩn dùng bữa cơm trưa có cá kho và lá cách. Đấy là lần
đầu tôi biết đến món lá cách. Buổi viếng thăm bác giáo Cẩn đã lưu lại trong tôi
những cảm xúc khó tả.
Từ
giã bác Cẩn, tôi và Vĩnh lại lang thang qua góc phố mé gần sông cái. Buổi trưa,
ngồi trên chiếc ghế đá trước dinh tỉnh trưởng, tôi hít thở hương vị mát mẻ của
con sông trước mặt và không khí trong lành êm ả. Thuyền bè qua lại dập dìu. Một
cô bé ôm mẹt chuối nấu nóng hổi đi ngang qua, mùi thơm toả nhẹ thật dễ thương.
Tôi tưởng chừng đang thưởng thức miếng bánh madeleine của Proust, hay miếng bánh mật dân dã của tuổi
thơ. Hai đứa ngồi nhâm nhi chuối nấu Vĩnh Long và nhìn mông ra sông nước, tận
hưởng những giờ phút cuối cùng được làm người khách lạ trước khi bị nhận diện
là hai thầy giáo vừa nhập tịch nơi này.
Khoảng
3 giờ chiều tôi mới vào trường đưa giấy Sự Vụ Lệnh để chính thức nhận nhiệm sở.
Mọi thủ tục chỉ chừng nửa tiếng đồng hồ là xong. Tôi lại ra xe đò trở về Sài
Gòn để tiêu cho xong dăm ba ngày còn lại tại một thành phố tôi đã quen nhịp điệu
mấy năm nay rồi. Những ngày còn lại ở Sài Gòn sao mà hối hả thế. Ngày nào tôi mới
vào Sài Gòn cảm giác nao nao tìm tòi khám phá những góc phố, những nhịp điệu mới.
Ngoài các giảng khoá chính thức tại Đại Học Văn Khoa, tôi còn say mê đến dự từng
buổi chiều tối các giảng khoá văn và triết tại Đại Học Vạn Hạnh. Tôi nhận ra từ
rất sớm tính cách rất khác biệt của hai trường đại học này. Đến khi vào Sư Phạm,
tôi lại thêm một kinh nghiệm khác về sự lạc hậu của giáo trình đào tạo ở đây.
Tôi trở thành một sinh viên thường xuyên vắng mặt, vì mải mê với sách thư viện
hay tại các tiệm sách cũ nhan nhản trên hè phố Sài Gòn. Từ những bức bối về nhà
trường, tôi đã nung nấu một ước mơ làm mới. Tôi say với niềm đam mê cái mới.
Không biết từ bao giờ, Sài Gòn đã gần như là nơi trú ẩn an toàn của giấc mơ
tôi. Nay thì những ngày ở Sài Gòn gần như cạn dần đến điểm chấm cuối. Nhiều
thoáng hụt hẫng trong lòng như thể sắp mất đi một vật quý. Tôi thường đi dạo
khuya một mình dưới hàng cây sao cao vút trước khu đại học xá mà nghe lòng mình
vấn vương một thời gian sắp mất mà chưa tìm thấy thời gian mới tại không gian mới
có tên là Vĩnh Long.
Ngày
trở xuống Vĩnh Long, tôi nhận ra những xao động những ngày trước đó thật dễ
thương nhưng cũng thật là chóng qua. Khi phác lại những dự toán cho công việc,
tôi lao vào những ngày tháng mới thật nhanh và trọn vẹn.
Sau
những buổi dạy, tôi thường tản bộ qua những con đường nhỏ nhắn từ nhà trọ đến
quán cơm Tân Tân, rồi len qua những dốc phố những chân cầu. Tôi cười thầm một
mình khi lẩm nhẩm câu hát của Hợi (Đi qua
chân cầu nhìn xuống dòng sông sâu, lòng buồn như thế đó...) (1) Làm gì mà phải
buồn! Nước lên rồi lại ròng, hết cầu thì lại dốc phố thôi! Cuộc sống vẫn nhịp hai
mà! Tôi thì hát với tôi thế này: “Thuyền
ai trôi qua sông mà lòng tôi trôi trên vai cầu... Đây hồn tôi thương nhớ sa
mưa, đem chia nhau lời hát mong chờ...” (2) Rất nhanh, sông nước miệt vườn sẽ trôi
nhịp hai trong tâm tư một anh giáo trẻ từ một nơi xa vừa đến đây như nhịp thở,
nhịp đập con tim sôi động.
Có
một lần tôi đi tản bộ một mình rất lâu, thầm thì với lòng mình về một “tâm tư
khoác kín”, tôi đọc lên câu thơ: “Mình
tôi với tuyết non cao, với cồn phố tịnh buốt vào xương da”. Trong một khung
cảnh khác, một tâm cảnh khác, nhưng Cung Trầm Tưởng và Phạm Duy đã hát lên cùng
một tâm tư khoác kín. Chiều hôm ấy, tôi hát lên câu thơ của bài thơ phổ nhạc “Chiều
Đông” mà Phạm Duy giao duyên cùng thơ Cung Trầm Tưởng trong tập thơ phổ nhạc Tình Ca (1959), và thấy mình gắn bó lạ
lùng với cồn phố tịnh của tôi lúc này. Tại sao không? Có những kẻ luôn thấy thiếu
quê hương và phải đi tìm một nơi trú ẩn
cho mình. Nhưng mà quê hương có thể ngay lập tức có mặt khi ta nhận diện được
nó. Phải không?
Hẹn
em thư sau,
Đoàn Xuân
Kiên
(1) Vũ Đức Sao Biển, ca khúc "Qua một chiếc cầu, một giòng sông" (1969)
(2) ĐXK, ca khúc "Dưới Cầu" (1971): http://youtu.be/OrqzOPyZBDI
(1) Vũ Đức Sao Biển, ca khúc "Qua một chiếc cầu, một giòng sông" (1969)
(2) ĐXK, ca khúc "Dưới Cầu" (1971): http://youtu.be/OrqzOPyZBDI
No comments:
Post a Comment