Chữ Quốc
Ngữ
qua những
biển dâu
1. Chữ viết ra đời rất muộn màng so với tiếng
nói của một dân tộc. Con người đã truyền
thông với nhau bằng tiếng nói từ khi họ kết tập với nhau thành những tập đoàn
chung sống. Nhưng chỉ là từ khi một thứ tiếng
nói đã được sử dụng thật thuần thục, sản sinh ra nhu cầu ghi lại những ý tưởng
lời nói của mình, khi ấy chữ viết mới thật sự ra đời. Thật ra, khó có thể nói là chữ viết đã ra đời
“nhất thành bất biến” như chúng ta thấy ngày nay. Lịch sử chữ viết đã trải qua bao phen biến đổi,
từ hình thức thắt nút dây như đã đượcghi nhận trong một câu ở Kinh Dịch: “Thượng
cổ kết thằng nhi trị…” đến sâu chuỗi vỏ sò có màu sắc khác nhau như người da đỏ
Iroquois, đều là những hình thức kí hiệu để ghi lại ý tưởng người xưa muốn truyền
đạt cho nhau, hoặc đơn giản là để ghi dấu lại cho nhớ. Những hình thức đó đều là những dạng mở đầu
do con người mò mẫm mà có được. Những
hình thức chữ viết bằng đồ vật như vừa nói ở trên là những gì sơ khai nhất của
chữ viết (hình 1). Tiến lên một bước nữa
là hình thức chữ viết bằng hình vẽ mà ta còn có thể thấy trong các văn bản cổ
trên đá của người cổ Ai cập từ hơn 4000 năm trước, hoặc là những vẽ trên đồ vật
bằng đất nung của người Sumer cũng khoảng thời kì hơn 3000 năm trước (hình 2).
Hình 1: chữ viết kết
bằng dây thừng của người Chăm (trong khu vực văn hoá Đông sơn)[1]
Hình 2: Chữ viết bằng
hình vẽ của người Ai Cập cổ [2]
Hình
thức chữ viết biểu ý như còn thấy ở một số chữ Hán đơn giản ban đầu vạch trên
các mai rùa đã có thể gọi là một bước tiến của lịch sử chữ viết (hình 3).
Hình 3: chữ hán sơ
khai tìm thấy trên mai rùa
Hình
thức phát triển cao nhất của chữ viết là hình thức ghi âm mà dấu vết buổi ban đầu bộ chữ viết của người
Phoenician (hình 4).
Hình 4: một vài chữ
cái của người Phoenician (thế kỉ 11 tcn)
Chữ viết ra đời đã góp phần rất lớn
vào việc phát triển ngôn ngữ con người, tạo ra một bước nhảy vọt quan trọng:
ghi lại tiếng nói để lưu giữ hoặc truyền đạt trong không gian rộng hơn tầm hạn
của tiếng nói. Nhưng giữa tiếng nói và
chữ viết,không bao giờ có thể tách lìa hoặc thủ tiêu một yếu tố nào: không thể
có chữ viết nếu không tồn tại một tiếng nói trước đó. Tương quan giữa tiếng nói và chữ viết như vậy
là tương quan trước-sau. Và chữ viết chỉ
có thể xem là những kí hiệu như bao nhiêu hệ thống kí hiệu khác do con người chế
tác để biểu đạt như một thứ nội dung nào đó.
CHỮ
VIẾT CỦA NGƯỜI VIỆT
2. Chữ viết của người Việt ra đời từ bao
giờ là một câu hỏi chưa dễ dàng có được câu trả lời rõ ràng. Chỉ biết rằng, trên các đồ vật bằng đá và bằng
đồng của thời kì văn minh Đông Sơn của dân tộc Lạc Việt, có những dấu hiệu cho
phép ta đặt giả thuyết về dạng chữ viết cổ xưa của dân tộc trước khi bị bọn xâm
lược nhà Hán thủ tiêu trong mưu đồ đồng hoá dân tộc Lạc Việt. Hệ thống chữ viết của người Việt nay đã qua
nhiều phen thay đổi do những đẩy đưa của lịch sử. Khi bị Hán tộc thống trị hơn nghìn năm, người
Việt đã trải qua một cuộc giao lưu văn hoá lớn, mà một trong số những thành tựu
văn hoá mới chính là bộ chữ viết mới được hình thành: chữ nôm. Chữ nôm là một thể hiện ý chí sống còn của
tinh thần dân tộc về mặt ngôn ngữ văn tự; dùng chính những nét viết của chữ Hán
để ghi lại tiếng nói của dân tộc, nhà nho Đại Việt đã dõng dạc nói lên ý
chí của giống nòi, quyết đạp bằng những
nghiệt ngã của số phận nô lệ để vươn lên độc lập. Những tấm bia cổ xưa từ đời các vua nhà Lí
còn cho thấy những tên gọi các làng xóm hoặc tên người rất “nôm na”, không thể
không có nhu cầu ghi lại bằng một kiểu chữ viết riêng trong khi mà chữ viết xưa
cũ đã tiêu trầm sau hơn nghìn năm ngoại thuộc.
Đến khi người Pháp sang xâm chiếm nước
ta, việc làm đầu tiên của nhà nước thuộc địa là huỷ bỏ vị thế của hệ thống giáo
dục bằng chữ hán, để thay thế bằng chữ quốc ngữ, một hệ thống chữ viết mượn của
bộ chữ cái tiếng Latin. Chữ quốc ngữ
cũng như chữ nôm trước đó, chỉ là những hệ thống chữ viết vay mượn của kẻ mạnh
để làm thành công cụ văn hoá dân tộc của một thời kì mà ý thức độc lập tự chủ
đã bị trói chặt. Dù là mượn nét viết của
chữ Hán hay của bộ chữ cái Latin, các hệ thống chữ viết của ta đều có một điểm
giống nhau là: Chữ nôm hay chữ quốc ngữ đều là hệ thống chữ viết ghi âm, tức là
dạng chữ viết ở mức phát triển cao nhất trong lịch sử chữ viết loài người. Nguyên tắc của loại chữ viết kí âm là “mỗi âm
một kí hiệu”, “nói sao viết vậy”. Tiếng
Việt thời Nguyễn Trãi có những phụ âm đôi mà hiện nay một số dân tộc thuộc chủng
Nam Á cư ngụ trên tây nguyên hãy còn nói, như bl, tl, kl, thì chữ nôm cũng đã
ghi lại trung thực những âm đó:
Cũng thế, khi chữ quốc ngữ được các
nhà truyền đạo soạn ra vào đầu thế kỉ XVII, tiếng Việt còn một số cách phát âm
mà nay không còn nữa, như trường hợp chữ “ β ” trong từ điển Việt-Bồ-La của A.
de Rhodes (1651), đọc nửa như [b] nửa như [v].
Một trường hợp khác: sự khác biệt
giữa hai âm [gi] và [d] đã được xác định rõ ràng và khi viết một từ như giản dị
chẳng hạn, không thể tuỳ tiện như một số người bây giờ, dù rằng ngày nay người
Bắc nói hai tiếng cũng có âm / z /, khi viết ra chữ thì đều là [d] thật đấy.
CHỮ
QUỐC NGỮ
Tên gọi hệ thống chữ viết tiếng Việt
hiện nay là do các nhà truyền giáo phương tây đặt ra từ thế kỉ XVII. “Chữ quốc
ngữ” nghĩa đen là “chữ viết của tiếng nói nước ta”. Cách gọi này không chính
xác, vì như đã nói, chữ nôm cũng là thứ chữ để ghi tiếng nói nước ta, có đâu chỉ
riêng hệ thống chữ viết Latin? Chẳng qua
đó chỉ là thủ thuật vận động quần chúng của các vị thừa sai nhằm triệt hạ uy tín
cũng như địa vị của chữ hán, chữ nôm lúc bấy giờ (thế kỉ XVII).
Chữ quốc ngữ được chế tác từ năm nào,
đến nay vẫn chưa rõ. Chỉ biết rằng, năm
1593 đã có một giáo sĩ Portugal là Diego Aduarte đến đất Quảng nam và ở đây ba
năm. Năm 1615, một giáo sĩ người Ý là
Busomi đến cửa Hàn (Quảng nam) giảng đạo mãi đến năm 1639. Rất nhiều tài liệu
viết tay hiện còn lưu trữ trong các thư viện giáo hội Thiên Chúa ở Portugal,
Pháp, và Vatican. Những mảng tài liệu tìm được cho đến nay đã bước đầu cho thấy
là chữ quốc ngữ đã manh nha từ những năm đầu thế kỉ XVII, qua một vài tiếng Việt
xuất hiện rải rác trong các bản tường trình hàng năm của của Tỉnh Dòng Tên Nhật
Bản do một linh mục Portugal tên là João Rioz soạn vào khoảng năm 1621. Tiếng
Việt được ghi trong những văn kiện tiếng Bồ này đều không có dấu giọng và cách
ghi âm chỉ tương đối: Annam (An nam),
Sinoa
(Xứ Hoá/Huế), Unsai (Ông sãi),
Cacham (Cả chăm), Ungue (Ông nghè), Ontrũ (Ông trùm) [3]…
Cũng khoảng thời gian này, một vị thừa
sai trẻ tuổi người Portugal là Francsisco de Pina đến giảng đạo ở Hội An năm
1623. Vốn là một học giả thông thạo nhiều ngôn ngữ phương đông, khi đến đất An
Nam, vị giáo sĩ này đã học tiếng Việt, và chẳng bao lâu là có thể giảng đạo bằng
tiếng Việt và soạn sách về ngữ âm và ngữ pháp tiếng Việt. [4] Có phần chắc là các nhà truyền giáo tiền
phong người Portugal như Pina đã góp nhiều công lao trong sự nghiệp chế tác hệ
thống chữ quốc ngữ vào đầu thế kỉ XVII. Đấy là những yếu tố con người và hoàn cảnh
cần cho sự ra đời một hệ thống chữ viết tiện lợi cho việc soạn sách truyền đạo.
Vào đầu năm 1625 có giáo sĩ Alexandre
de Rhodes đến Hội An giảng đạo. Vị thừa sai dòng Tên người Pháp này cùng vị
giáo sĩ Ý khác là Christoforo Borri đến đất Việt năm 1618 trước đó đều là những
học giả, nhất là A. de Rhodes, chăm chỉ học tiếng Việt trong vòng mấy tháng là
đã “giảng đạo cho người trong xứ bằng tiếng của họ được” [5]
Ròng rã hơn 30 năm liền, chữ Quốc ngữ
đã được hoàn chỉnh dần, qua những công phu của những nhà truyền giáo Portugal
như cố Pina. Đến khi A. de Rhodes xuất bản cuốn từ điển Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum (Rome, 1651) thì chữ quốc ngữ đã có dạng hoàn
chỉnh, nhờ nó tập đại thành những thành công trước của những giáo sĩ thuộc nhiều
giáo đoàn, nhiều gốc gác khác nhau: có người Ý, có người Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha, có người Pháp. Mỗi người sẽ dựa
theo bản sắc tiếng nói của họ mà ghi âm tiếng Việt. Những ưu điểm và khuyết điểm của chữ quốc ngữ
là tuỳ ở điểm này. Đây là điều cần xét đến
mỗi khi chúng ta muốn có ý kiến, hoặc là phê bình một kiểu ghi âm nào mà ta cho
là “khác thường”. Chữ viết là những bình đựng tiếng nói, vậy thì giá trị của những
cái bình là ở chỗ nó có chuyên chở được tiếng nói một cách rõ ràng chính xác
hay không.
Hình 5: một trang từ
điển Việt-Bồ-La của A. de Rhodes (1651)
Một quyển lịch sử Việt nam do thầy giảng
Bento Thiện soạn bằng chữ quốc ngữ năm 1659 đã chứng tỏ sự trưởng thành vượt bực
của hệ thống chữ viết Latin trong việc ghi âm tiếng Việt. Chữ viết đã triệt để theo quy tắc ghi âm,
nghĩa là nói sao viết vậy, mỗi kí hiệu chỉ một âm thanh. Cách viết chữ quốc ngữ của Bento Thiện cũng
theo phương pháp trong từ điển A.de Rhodes, nghĩa là theo phương pháp ghi âm của
Portugal khi viết “ng” thành / ũ/; phiên âm kiểu Ý khi viết “gi”, “qu”; phiên âm kiểu Pháp khi viết “k”
trước nguyên âm “e, ê, i”, và “c” trước các nguyên âm khác… Đó là một ưu điểm nếu
nhìn về vẻ đa diện của chữ quốc ngữ về mặt cấu tạo.
Ngày nay, đọc lại sách của A. de
Rhodes để đối chiếu với những sách ra đời sau này,sẽ nhận thấy những thay đổi về
cách viết của chữ quốc ngữ. Một thí dụ: từ điển A. de Rhodes (1651) có hai từ
ghi như sau: blời (trời), tloũ (trông); đến từ điển Dictionarium Anamitico Latinum do Pigneau de Béhaine soạn (1773) đã
không thấy những âm đôi “bl” và “tl” nữa, cũng không còn phụ âm cuối “ũ”. Hai từ
này đã viết như chúng ta ngày nay, nghĩa là trời và trông. Các từ điển về sau này, tính từ Dictionarium
Anamitico Latinum của Taberd (Serampore, 1838) đã kiện toàn thêm những hình
thức viết cho chữ quốc ngữ. Mặc dù chữ
quốc ngữ đã dần dần ổn định về cách viết, vẫn có những thay đổi nhỏ nhặt, có
khi ý thức, có khi vô tình. Chữ quốc ngữ
đã không bao giờ “nhất thành bất biến” cả.
Hình 6: một trang tự
vị Dictionarium Anamitico Latinum của
Pigneau de Béhaine (1773)
TRÊN
ĐƯỜNG TRƯỞNG THÀNH
Đến đầu thế kỉ XX, một học giả Pháp
khi nhắc lại công trình của A. de. Rhodes, không tiếc lời ca tụng: “Quyển từ vị
ấy vẫn là nền tảng cho các công trình sau này mà chỉ thường là bổ túc cho nó,
cũng có khi làm hỏng nó. Những người biết
đi tìm những hiểu biết tinh tường về ngữ âm học ở sách, cùng là sự tài tình của
cách phân chuyển tiếng Việt mà đến nay đã có thể thách đố mọi sự công kích.” [6].
Lời tán tụng quả là đã đến mức tột đỉnh. Nhưng rồi cũng chính một học giả của Viện Bác
cổ ấy, trong một bài khảo cứu về tiếng Mường ở Sơn tây, nhân tiện đã nhận định
về từ điển A.de. Rhodes như sau: “Phương pháp ấy (de Rhodes) thực thế chứa nhiều
cái bất thường mà trong một cuộc nghiên cứu ngôn ngữ như thế này sẽ có nguy hại
là làm sai lạc kết quả nghiên cứu mà thôi.
Vì vậy chúng tôi … phải loại bớt những cái bất thường và kì quái làm cho
nó hợp lí.” [7]
Quả là thế, từ khi ra đời đến nay, chữ
Quốc ngữ đã luôn luôn được tu chỉnh. Bộ
mặt của chữ viết từ từ điển de Rhodes (thế kỉ XVII) đến từ điển của Pigneau de
Béhaine (thế kỉ XVIII) đã khác biết là chừng nào. Những khác biệt này có thể bắt nguồn từ chính
tiếng nói thay đổi (như là hiện tượng đồng hoá / ư / vào / b / và / v / sau thế
kỉ XVII; vì vậy không thấy có các từ điển sau De Rhodes); nhưng cũng có những
trường hợp do sự sửa đổi, khiến cho chữ viết mỗi ngày thêm thay đổi. Vả chăng, chứng cứ hiển nhiên là cho đến nay,
có ít ra là năm bảy lượt hô hào cải cách chữ quốc ngữ.
Đề nghị sửa đổi chữ
quốc ngữ năm 1902
Hội nghị Nghiên Cứu Viễn Đông 1902 tại
Hà nội có một Uỷ ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ do ông Chéon đứng đầu. Phúc trình của Uỷ ban đúc kết những ý kiến thảo
luận trong ba ngày 6/12 -8/12 cho ta biết đại cương những đề nghị sửa đổi như
sau:
(1)
Phải triệt để tôn trọng nguyên tắc: mỗi
chữ một giá trị kí âm thôi. Vì vậy, hoặc
phải bỏ chữ g trong gang hay trong gi bởi lẽ rằng hai chữ cái ở đầu phát âm khác nhau; cũng thế, cá và kẻ phải cùng một cách viết chữ cái mở đầu;
(2)
Về các âm chính (nguyên âm), hệ thống hiện nay là thỏa đáng, trừ dấu mũ ở trên â có giá tri khác hẳn trong ô và ê, nên đề nghị thay chữ â
bằng a’ (có râu bên cạnh) thì hơn.
“Uỷ ban cũng nghĩ rằng phải bỏ hẳn thói quen mà vài tác giả vẫn có, trái với
phương pháp của de Rhodes, là thay y
vào i trong vài trường hợp (kỹ, lý, mỹ) mà không có một lí do nào chứng
minh cho được…”
(3)
Về các âm phụ (phụ âm), Uỷ ban đề nghị thay một số chữ cái sau đây: c thay cho ch. (Chữ h dùng cho những trường hợp các âm thở,
như th, kh). Nhất loạt thay k vào chỗ của c. Chữ d (bỏ
gạch ngang) thay cho chữ đ. Âm
/d/ hiện nay sẽ thay bằng chữ z.
Chữ g không mất tính cách âm
họng dù là trước nguyên âm e, ê, i,
vậy thì không thể thêm h trong những
trường hợp này. Thay chữ gi bằng j. Chữ q không khác gì k, vậy
phải bỏ và thay bằng k…. [8]
Mặc dù được chuẩn y sau nhiều tranh
luận gay gắt giữa hai phe chống đối nhau, bản đề nghị sửa đổi của Uỷ ban đã
giao cho Viện Viễn Đông Bác Cổ tiếp tục nghiên cứu và thực hiện trên các trang
in của viện. Trong khi đó thì công chúng
và nhà trường vẫn không hề biết gì về những đề nghị thay đổi kia.
Dự án cải tổ năm
1906
Đến năm 1906, vấn đề cải cách lại được
đặt ra ở hội nghị của Hội Đồng Cải Lương Học Chánh do ông Nordemann làm chủ tịch. Bản đề nghị của Hội Đồng lần này bị công luận
đả kích kịch liệt vì nhiều lí do bên ngoài học thuật. Thế là dự án cải tổ 1906
vĩnh viễn bị chôn vùi. Linh mục Cadière có nhắc lại chuyện này như sau: “ Xét về
mặt khoa học cũng như về mặt thực hành và sư phạm, dự án này thật là một cuộc
thoái bộ.” [9]
“Quốc ngữ mới” của
nguyễn Văn Vĩnh (1928)
Trên báo Trung Bắc Tân Văn, khoảng cuối năm 1928 nhà văn và cũng là nhà báo
nổi tiếng thời bấy giờ, ông Nguyễn Văn Vĩnh, tung ra lối in chữ quốc ngữ mới, gọi
là Quôcj Ngưw Moeij. Việc đề xướng kiểu chữ mới này không nhằm mục
đích ngôn ngữ như những lần trước, mà chỉ có tính vụ thực tế làm ăn của một ông
nhà báo. Chẳng là: ông chủ báo muốn cải
cách công việc in báo của mình bằng một dàn máy in kiểu tân kì nhưng lại không
có những con chữ Việt. Thế là đổi sáu dấu
gịong bằng con chữ cái, thay những chữ cái riêng của hệ thống chữ viết đang
dùng nhưng không có trong bộ chữ của tây ( như là ă, đ, ư…) bằng một con chữ nào đó tuỳ tiện chứ không dựa trên sự
chính xác về ngữ âm.
Dự định của Nguyễn Văn Vĩnh không
thành, chỉ vì ông chỉ nghĩ đến ý đồ riêng tư chứ không dựa vào chính hệ thống
chữ quốc ngữ nhìn từ khía cạnh học thuật. Theo chân ông, sau này còn có một số
người khác, lại muốn sửa đổi chữ quốc ngữ theo ý đồ riêng và ý thích riêng của
họ. Đó là trường hợp Vi Huyền Đắc ( với
công trình Việt tự), Phạm Xuân Thái
(qua công trình Việt Ngữ Cải Cách). Những công trình nói trên đều không phát xuất
từ cơ sở ngữ học để giải quyết những khuyết điểm của chữ quốc ngữ hiểu như là một
hệ thống chữ viết ghi âm, nên đã không gây được chú ý của mọi giới quan tâm.
“Chữ và vần Việt
khoa học” của Nguyễn Bạt Tuỵ (1949)
Là một người nghiên cứu ngữ âm học tiếng
Việt, Nguyễn Bạt Tuy là một tác giả đã có nhiều cống hiến về mặt này. Năm 1949, ông viết sách Chữ và Vần Việt Khoa Học, nội dung là trình bày những gì ông tìm
tòi được về mặt âm vị học tiếng Việt, rồi qua đó đưa ra một bản đề nghị sửa đổi
cách viết chữ quốc ngữ mà ông cho rằng hợp lí và khoa học.
Nguyên
tắc chung của quan điểm Nguyễn Bạt Tuỵ là dựa trên nguyên tắc âm vị học để ghi
âm tiếng Việt. Ông phân tích hệ thống
đơn vị âm thanh tiếng Việt và các lối tổ hợp âm thanh của nó. Kết quả là tác giả phát hiện hệ thống các âm
vị có nhiều nét khác với những gì xưa nay cứ yên trí là đúng đắn, nay cần phải
sửa lại. Từ đó sẽ phải dẫn đến một một
việc chính yếu của sách là đưa ra một bản đề nghị thay đổi cách viết chữ quốc
ngữ theo ông là chính xác theo nguyên tắc ngữ âm học (hình 7). Nhưng vì thế mà
những đề nghị của ông Nguyễn chính xác quá, hoàn hảo quá nên không có thể thực
hiện được trên thực tế được, vì chữ viết không phải là những kí hiệu ngữ âm
theo kiểu một bản phiên âm quốc tế.
Hình 7: một đoạn viết
chữ quốc ngữ theo Nguyễn Bạt Tuỵ (1949)
Đoạn thơ trên chính là:
“Chí
làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo
Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã
nhà đeo bức chiến bào,
Thét
roi cầu Vị ào ào gió thu.”
Bản đề nghị của Nguyễn Bạt Tuỵ rất
triệt để, vì hoàn toàn dựa trên nguyên tắc ghi âm, lại dựa ở trên một số phát
kiến quan trọng và mới mẻ so với đương thời. Đó là nguyên nhân tại sao cho đến
nay công chúng và các chính quyền tiếp nhau ở Việt Nam không thừa nhận nó. Lại
nữa tác giả là người nhiệt tình đối với tiếng mẹ đẻ, nhiệt tình đến mức độ quá
khích, thể hiện ở lối chế tác những thuật ngữ mới. Nhưng vượt lên trên những quan điểm này, quan
điểm của Nguyễn Bạt Tuỵ có rất nhiều giá trị tham khảo cho một công trình
nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt.
Hội nghị thống nhất
ngôn ngữ (1956)
Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc tại Sài Gòn
năm 1956 có một Uỷ Ban Ngôn Ngữ, cũng kiến nghị một chương trình sửa đổi một số
cách viết về chữ Quốc ngữ. Có nhiều nhà chuyên
môn về ngôn ngữ tham gia soạn thảo dự án.
Nội dung của đề án cải tổ chữ quốc ngữ cũng chỉ xoay quanh những nét căn
bản đã được khởi xướng từ bản đề nghị của Uỷ Ban Cải Cách năm 1902. Những đề
nghị của Uỷ Ban Ngôn Ngữ lần này rơi nhanh vào lãng quên là vì thiếu kế hoạch
phối hợp giữa giới văn hoá và nhà trường.
Tất cả mọi sửa đổi chỉ có thể thực hiện được là qua báo chí và trường học. Nhưng rồi cũng không có gì thay đổi suốt bao
nhiêu năm trời. Chương trình giáo dục tiếng Việt ở miền Nam vẫn chỉ nhắc nhở
suông vài câu rằng chính tả cần dựa theo Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến
Đức soạn (1931).
Hội nghị cải tiến chữ
quốc ngữ (1959)
Tại Hà Nội, một hội nghị cải tiến chữ
Quốc ngữ được tổ chức năm 1959 với dự định là đẩy mạnh việc cải tiến chữ quốc
ngữ cho thêm phù hợp với thực trạng tiếng nói của chúng ta hiện nay, đồng thời
sửa lại những chỗ không chính xác trong lối ghi âm hiện hành. Thật ra, trong Đề Cương Văn Hoá (1943), Đảng
Cộng Sản Đông Dương cũng đã đề ra mục tiêu cải cách chữ quốc ngữ và xem đó là
“một việc phải làm”, “Một nhiệm vụ cần kíp”.
Các nhà khoa học ngôn ngữ miền Bắc lúc bấy giờ cũng chia sẻ với Ủy Ban
1902 về những cải tổ có ý nghĩa. Nhưng rồi,
cũng như Hội nghị 1956 ở Sài Gòn, mọi bàn cãi sôi nổi cũng lại ngủ yên trên giấy
tờ, vì cho rằng “tình hình chưa thuận tiện”, nên nhiệm vụ cải tiến chữ quốc ngữ
phải gác lại.
Như đã nói trên, nội dung của những kết
luận Hội nghị 1959 cũng không đi xa hơn những đề nghị của Uỷ ban 1902, nghĩa là
cũng dựa trên cơ sở ngữ âm học để thể hiện nguyên tắc “nói sao viết vậy” hay là
“mỗi âm được ghi bằng một kí hiệu”.
Uỷ ban điển chế văn
tự (1973)
Bước vào những năm 1970, tại Sài Gòn
có một cơ quan tên là Hội Đồng Văn Hoá Giáo Dục được tổ chức ra làm công việc vạch
hướng và cố vấn cho hoạt động khoa học của Bộ Văn Hoá Giáo Dục lúc bấy giờ. Mục tiêu nhằm đến xem ra khá to tát. Về địa hạt
ngôn ngữ, một Uỷ Ban Điển Chế Văn Tự được ra đời để làm công việc bị bỏ dở từ
bao nhiêu năm: cải tiến chữ quốc ngữ. Thật
ra, uỷ ban có nhiệm vụ cụ thể lúc bấy giờ là điển chế danh từ khoa học mà thành
tích nổi bật là sự ra đời một Nội San
Danh Từ Chuyên Môn nhằm phổ biến những công trình soạn thảo danh từ các
khoa học chuyên ngành. Tiểu ban Chính Tả
cũng đã bàn cãi về những nguyên tắc chính tả và sửa đổi cách viết. Ảnh hưởng của
Uỷ ban này chưa có gì đáng kể trong công chúng, vì thời gian làm việc quá ngắn
ngủi, lại chỉ quanh quẩn giữa một nhóm nhỏ các vị chuyên môn.
Sau 1975
Những dự toán cải tổ trước kia ở hai
miền Nam, Bắc đều không có yếu tố thuận lợi về mặt công chúng. Sau 1975, vai trò chuẩn hoá tiếng Việt, giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt được đặt ra toàn diện. Một hội nghị lớn bàn về
vấn đề “chuẩn hoá” tiếng Việt liên tiếp được triệu tập trong những năm 1979.
Theo đà làm việc đó, một số từ điển, chủ yếu là song ngữ, đã ra đời. Đã có cả một
công trình Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ chủ biên. Tiếng Việt trong hoàn cảnh thuận lợi nhiều mặt
như thế tất yếu là phải phát triển, vì hội đủ những yếu tố cần thiết cho một cuộc
vận động xã hội: tổ chức chỉ đạo, công chúng, các cơ quan chức năng trong xã hội.
Thành hay bại giờ đây là tuỳ thuộc ở đảm lược của chính những con người.
Ở hải ngoại, chưa thể có những điều
kiện thuận lợi như thế. Nhưng những nhu cầu của tập thể người Việt ở hải ngoại
về mặt ngôn ngữ lại đòi hỏi sự quan tâm đúng mức của mọi người để công việc duy
trì ngôn ngữ và văn hoá dân tộc có những nền móng ổn định và vững chắc. Thế mà, không có được những tổ chức chuyên
môn có thể góp phần vào công việc lớn lao này.
Đây là một thử thách lớn cho mọi người.
CHỮ
QUỐC NGỮ NGÀY NAY
Nhìn lại chặng đường dài từ Hội nghị
Nghiên cứu Viễn đông (1902) trở đi có thể thấy những dự án cải cách chữ quốc ngữ
đã là một mối quan tâm của giới học thuật đối với những ưu khuyết điểm của hệ
thống “chữ quốc ngữ”. Trừ một vài nhà trí thức tây ở đầu thế kỉ, không ai nghi
ngờ gì về những ưu điểm của hệ thống chữ
viết kí âm dựa theo bảng chữ cái Latin này. Nhưng nói thế không phải là hệ thống
chữ viết này đã hoàn hảo, mà vì nó được tạo ra từ nhiều nguồn tri thức bản ngữ
khác nhau nên chữ quốc ngữ đã có một số khuyết điểm tự thân cần phải khác phục
để được nhất quán. Những cuộc vận động gọi là “cải cách” chữ quốc ngữ từ 1902
thật ra là chỉ giúp nó nhất quán với nó, chứ không phải là để tìm một điều gì mới lạ đối với chính nó.
Tiếc thay, cho đến nay việc bàn cãi
chỉ là giữa các nhà trí thức chuyên môn mà thôi. Không thấy một cố gắng nào từ
phía nhà nước và công chúng, nhất là giữa nhà trường và hệ thống truyền thông.
Một thí dụ điển hình: các tập Chương
Trình Giáo Dục (một văn kiện hướng dẫn
việc dạy và học tại nhà trường phổ thông) hằng năm đều nhấn mạnh là chính tả cần
dựa theo Việt Nam Tự Điển của Khai
Trí Tiến Đức và Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị
của Lê Ngọc Trụ. Nhưng trên thực tế chẳng có thầy giáo nào áp dụng nguyên tắc chính
tả theo hai từ điển nói trên, vì thực tình là hai bộ từ điển trên không cùng
theo một nguyên tắc chính tả, nên dù có muốn theo thì cũng chẳng biết theo ai.
Nhà nước thì tắc trách như thế, bảo sao nhà trường và xã hội cứ làm ngơ!
Ngày nay, nhu cầu về lâu về dài của cộng
đồng người Việt là làm sao duy trì ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Từ đó đặt ra
công việc dạy và học tiếng mẹ đẻ bên cạnh những công việc khác. Dạy những gì và
dạy ra sao, là những câu hỏi mà mỗi thầy giáo và mỗi bậc cha mẹ thường vẫn phải
đặt ra để tự soi đường cho việc mình làm; vì đến nay hầu như chưa có nhiều công
trình đầu tư suy nghĩ cho cái công việc nặng nhọc này. Chỉ giới hạn trong phạm
vi rất nhỏ hẹp thôi, là vấn đề dạy chữ quốc ngữ, cũng đã có nhiều việc phải
bàn. Chẳng hạn, khi cô giáo dạy trẻ rằng
ă đọc là /á/. Nhưng khi cô ghép vần với n /n/, cô đọc là /á – n à ăn/,
cháu bé sẽ ngẩn ngơ, vì không hiểu sao không thấy dấu sắc / ’/ nữa. Nó cứ đinh ninh là / á – n à án / chứ. Trực giác của cô giáo và của cháu bé đều
không sai, chỉ có quy ước của kí hiệu ở đây không chính xác. Ví dụ khác nữa: các cháu được dạy ng đọc là
/ngờ/ nên cứ yên trí là ngề ngiệp đúng chính tả, như ngọc ngà vậy thôi, vì cũng
có âm /ng/ ở đầu tiếng…
Những cái “yên trí” như vậy đều có
trong mỗi đứa trẻ con trong mỗi người Việt ở mọi thế hệ. Chúng ta đâu có lỗi! Chúng ta chỉ bị hệ thống
chữ viết và phương pháp dạy học không
chuẩn xác “lỡm” chúng ta mà thôi, mà nguyên do chỉ là vì sự bất nhất trong
nguyên tắc mà chính những người sáng chế ra chữ quốc ngữ đặt định từ mấy trăm
năm trước: dùng chữ cái Latin để ghi các âm theo nguyên tắc mỗi âm một kí hiệu.
Những vướng víu như thế sẽ dễ thông
qua nếu ta vẫn còn hằng ngày hít thở ngôn ngữ của mình ở quê nhà. Nhưng đối với trẻ con đang từng ngày bị lôi
kéo xa khỏi cộng đồng ngôn ngữ dân tộc, những vướng víu như vậy sẽ nổi lên rất
rõ, có thể đến mức gây thành ấn tượng không hay ho gì cho tiếng nói và ngôn ngữ
dân tộc. Trong trí trẻ luôn luôn có
khuynh hướng đối chiếu ngôn ngữ khi nói và viết tiếng mẹ đẻ, vì chúng đã có một
khuôn mẫu ngôn ngữ khác, khuôn mẫu ngôn ngữ ấn-âu cũng dùng hệ thống chữ cái
Latin.
Tất
cả những yếu tố tâm lí và xã hội ngôn ngữ học nói đến ở trên đều tác động vào
việc học tiếng mẹ đẻ của trẻ Việt song ngữ trong cộng đồng hải ngoại hiện nay và
mai sau. Nhiệm vụ của chúng ta là làm giảm nhẹ những thứ hành lí nặng nề không
cần thiết cho việc dạy và học tiếng Việt ở ngoài nước. Từ đó, đặt ra việc nhìn trở lại những gì
chúng ta đang có: hiện tình chữ quốc ngữ.
Chữ quốc ngữ hiện nay gồm có 29 chữ cái
mượn từ hệ thống chữ cái Latin có thay đổi chút ít để phù hợp với nét vẻ riêng
của tiếng Việt; trong đó 17 chữ cái dùng để ghi phụ âm, 12 chữ cái để ghi
nguyên âm. Ngoài ra còn có 5 dấu để ghi
sáu giọng cao thấp của mỗi tiếng. So với
hệ thống chữ nôm vốn cũng theo nguyên tắc kí âm mà ta mượn nét viết của chữ
hán, phải nhận rằng chữ quốc ngữ đơn giản và tiện lợi hơn nhiều lắm, và cũng là
một hệ thống được tạo lập rất có khoa học so với tình trạng khoa ngữ học ở thế
kỉ XVII – XIX. Tuy nhiên, điều đó không
có nghĩa là chữ quốc ngữ đã rất hoàn hảo, bất khả xâm phạm. Sự thay đổi của bộ mặt chữ quốc ngữ trong
vòng một thế kỉ từ khi từ điển De Rhodes ra đời cho đến khi Pigneau de Béhaine
soạn từ điển của ông đã chứng tỏ rằng các nhà hoạt động ngôn ngữ đã không quá bảo
thủ hoặc hãnh tiến đến mức liều lĩnh cố chấp.
Huống chi, ba trăm năm qua, nhiều tiến bộ về mặt học hỏi song song với sự
đổi thay tự nhiên của tiếng Việt, đã khiến cho những niềm tin cũ nay trở nên
đáng nghi ngờ, cần phải dành nhiều công sức của nhiều giới có thiện chí.
Trong tình trạng hiện nay của chữ quốc
ngữ, hay nói đúng hơn, hiện trạng của chữ quốc ngữ trong vòng một trăm năm trở
lại đây – tính từ thời điểm những bộ từ điển Taberd (1838), Legrand de la
Liraye (1877), Hùinh Tịnh Của (1895-6), Génibrel (1898), Bonet (1899) xuất bản,
có thể thấy nhiều vấn đề cần đặt ra thảo luận.
Chúng tôi tạm quy về hai nhóm vấn đề:
1. Những sự thay đổi tự nhiên qua thời gian khiến
cho chữ viết không còn ghi đúng nội dung âm thanh tiếng nói;
2. Những hiện tượng đi lạc ra ngoài nguyên tắc
“mỗi kí hiệu chuyên chở một đơn vị âm thanh của ngôn ngữ”.
Chữ quốc ngữ qua thời
gian
Cuốn từ điển của de Rhodes có một phần
biên soạn về ngữ pháp tiếng Việt, có tựa là “Linguae Annamiticae seu
Tunchinensis Brevis Declaratio” (Báo cáo vắn tắt về tiếng An nam hay tiếng Đàng
ngoài), chính là một tập ngữ pháp Việt nam vào thời kì này. Chương I: “Chữ và vần gồm trong tiếng này” có
đoạn nói về chữ D như sau: “D phát âm và có giá trị y như D Latin, nhưng với một vài khác biệt, nhất là
trong những từ mà D có E đi theo gần như dính liền, lại không phát âm rõ, thí dụ
deă, pellis (da); còn khi không có
E dính ở giữa, thì nó hoàn toàn đọc như
D của chúng ta, thí dụ Dà (nhà) …” [10]
So sánh với đoạn nói về chữ gi, ta thấy ông chỉ dẫn cách đọc gi tương tự như lối đọc gi ở tiếng Ý.
Kiểu nói phân biệt /d/ và /gi/ này đã dần dần biến mất, mà có khuynh hướng đồng
hoá cả hai thành / z / ở tiếng bắc, và / j / ở tiếng trung, nam. Nhưng chữ viết vẫn không thay đổi theo. Hình
thức viết gi và d hiện nay vẫn là theo mẫu mực của thế kỉ XVII. Nếu không dựa vào lịch
sử phát âm như thế, khó có thể hiểu tại sao lại viết giản dị mà không thể viết dản
dị được.
Hiện tượng chữ ph cũng đáng chú ý. Từ điển
A. de Rhodes cho rằng: “Thực ra tiếng xứ này không bao giờ có P đứng đầu các chữ
như đã nói ở phần nghiên cứu chữ F. Chỉ
có PH, đọc giống như phi của Hi lạp.” [11] Ngược
lên đoạn nói về chữ F, ta thấy chỉ dẫn như sau: “F- hay đúng hơn, PH – vì khi đọc
nó, không tách hai môi như khi đọc F của ta.
Khi phát âm chữ này, môi cử động rất nhẹ và hơi rít cũng chỉ qua loa.” [12]
Maspéro cắt nghĩa rõ thêm rằng ph là một âm môi hơn là âm môi răng như
ngày nay. Âm này đã thay đổi từ bao giờ
không rõ, nhưng tổ hợp ph ngày nay
không còn bật hơi như ngày xưa; thảng hoặc chỉ còn một vài nơi hoặc một vài cá
nhân nói giọng cổ đó mà thôi. [13] Nói
cách khác,ngày nay, âm PH phát âm như âm F của người phương tây, chứ không bật
hơi khi mở hai môi như ngày xưa A. de Rhodes đã ghi nhận.
Tưởng cũng cần nói thêm là de Rhodes
và các vị chế tác chữ quốc ngữ đã có dụng ý thêm chữ h trong các trường hợp th,
kh, ph là để chỉ tính cách bật hơi thở của những âm này; cho đến nay, tính
cách này đã mất đi ở ph, và giảm nhẹ
ở kh.
Trên đây là những sự kiện nhặt ra được
từ chính nội thân tiếng Việt để so sánh với chữ viết theo hệ thống chữ cái
Latin. Những đổi thay này là tự nhiên
thôi. Cũng chẳng phải vì tiếng nói đổi
thay là chữ viết cũng phải sửa đổi theo ngay.
Dù sao, thói quen của tập thể người sử dụng ngôn ngữ vẫn mạnh hơn ý muốn
của thiểu số nhà khoa học. Quy luật của
ngôn ngữ là: tập quán của đám đông quyết
định sự tồn tại của một hiện tượng ngôn ngữ.
Cho nên, các hiện tượng đổi thay qua thời gian được đề cập ở đây chỉ có
ý nghĩa nói lên tính cách động của tiếng nói qua thời gian, chứ ngôn ngữ luôn
luôn không hề “nhất thành bất biến”.
Những hiện tượng lạc
ra ngoài nguyên tắc âm vị học
Bộ chữ cái Latin dùng để ghi âm tiếng
Việt tất nhiên là cũng theo nguyên tắc chung của một hệ thống chữ viết ghi
âm: mỗi chữ cái là một kí hiệu ghi lại một
âm thanh. Thế nhưng trong chữ quốc ngữ của
chúng ta, không phải lúc nào cũng có sự trùng khít giữa chữ cái và nội dung các
âm thanh. Và đây chính là nguyên do làm
nảy ra các sáng kiến cải tổ chữ quốc ngữ một cách có ý thức do các nhà ngôn ngữ
đề xướng.
Trước hết là hiện tượng c, k, qu. Từ điển de Rhodes có ghi chú
rằng: “Chữ C chỉ ở vị trí đầu các tiếng
có nguyên âm A, Ô, Ơ, U, Ư; còn trước các nguyên âm Ê và I chúng ta dùng K hoặc
S. (sic)”. Ở đoạn nói về âm K, tác giả
viết: “K chỉ đứng với nguyên âm Ê và I,
chẳng hạn: kẻ, kĩ…” [14] Tại sao
lại có hiện tượng đó? Không phải tiếng
Việt đọc âm /k/ khác nhau trước hai loại nguyên âm này, mà chính là các nhà chế
tác chữ quốc ngữ đã đem áp dụng thông lệ chính tả của Pháp đặt vào tiếng Việt. Nhưng âm / k/ trong tiếng Pháp lại không có
chúm môi trước nguyên âm, cho nên phải mượn QU trong tiếng Latin và đọc y như ở
trong tiếng Latin vậy. Đây là một thói
quen của một số giáo sĩ phương tây đặt để lên tiếng Việt mà không có lí do thoả
đáng nào cả. Mặc dù vậy, thầy cô giáo tiếng Việt vẫn cứ phải gọi đó là “quy tắc” để nhắc nhở cho học sinh viết đúng “nguyên tắc”.
Trường hợp g(h), ng(h), cũng là một lệ ngoại. Hiện tượng thêm h trước các nguyên âm E, Ê, I, là ảnh hưởng của lối chính tả Latin
chứ không có lí do tự nội thân tiếng Việt.
Âm /h/ trong trường hợp này không có cơ sở vững chắc như kh, ph, th.
Hiện tượng gi được nhắc nhở trên đây cũng là một trường hợp đi lạc ra ngoài
nguyên tắc âm vị học nữa. GI là cách
chính tả của tiếng Ý, mượn để chỉ một âm tắc xát ở vào thời de Rhodes. GI, như vậy, chỉ là một kí hiệu chỉ một âm đầu,
kết hợp với một nguyên âm nào đó mới thành một tiếng: gi-à, gi-ỏ, gi-ẻ, gi-ết. Thế nhưng khi ghép với nguyên âm i, GI lại mất
I: g(i) –i > gi. Đây là sự vi phạm nguyên
tắc âm vị học, vì g(i) giờ đây đồng hoá với một âm khác là g/g(h) nhưng lại đọc khác hoàn toàn.
Cũng theo quy ước âm vị học, tất cả
các nguyên âm đều được phát âm ở bậc thang âm ngang: a, i, o, u… đều đọc là /a/, /i/, /o/, /u/. Nhưng khi đọc đến những nguyên âm ngắn của a và ơ, người ta phát âm thành một âm có bậc thang âm rất cao, ở bậc dấu
sắc / ’/. Sự lẫn lộn nhỏ này đã dẫn đến
một nhầm lẫn lớn khác: làm mờ sự đối xứng giữa nguyên âm dài và nguyên âm ngắn ở
tiếng Việt. Nói cách khác, ă và a không phải là hai âm khác nhau mà chỉ là một âm dài và một âm ngắn
mà thôi, tương tự như cặp ơ và â vậy.
Có nhận ra sự đối lập này mới cắt nghĩa thấu đáo tại sao có một sự phân bố đồng đều giữa chúng khi kết hợp với
các âm cuối y, u, ch, nh. Theo cách viết hiện nay thì ta nghĩ những
nguyên âm trong ay, au, ach, anh là những nguyên âm dài, nhưng thực ra đó chính
là những âm a ngắn, còn những âm a dài thường phân bố kết hợp với những âm cuối
trên dưới dạng viết sau: ai, ao, ac, ang.
Trong cách viết chữ quốc ngữ hiện
nay, có hiện tượng bất nhất khi viết i
và y. De Rhodes ghi chú như sau về cách viết hai chữ
này ở thời ông: “Tiếng xứ này chỉ dùng
chữ I làm nguyên âm, vì chữ I phụ âm được thay bằng chữ G (sic). Muốn tránh lẫn
lộn, ta dùng I ở giữa hay ở cuối tiếng: biết, bĩ. Cũng cần chú ý là ta dùng âm Y ở cuối tiếng
khi nào có nguyên âm kép (sic) cần phải đọc tách biệt: Ếy (ấy), nhưng phải dùng I khi nào nguyên âm
kép không đọc tách rời, ví dụ chữ Ai. Để
tránh dùng nhiều dấu hiệu trên một chữ, ta không đánh hai dấu chấm trên chữ
I. Chỉ cần nhớ với nhau một lần rằng viết
Y ở sau một nguyên âm không phải để đọc thêm một vần tách biệt mà chỉ có ý phân
biệt vần như trong cây và cai.
Ta cũng dùng Y trước một số nguyên âm nhưng cũng không xem là phụ âm bao
giờ, chẳng hạn ýeo (tức là yếu), ỷa (tức là ỉa).” [15] Nguyên
tắc này được áp dụng chặt chẽ trong bản thảo của Bento Thiện (1659) cho đến từ
điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931).
Nhưng đến ngày nay thì sách báo tiếng
Việt có nhiều kiểu viết bất nhất về chữ i
và y. Dường như người viết chỉ theo trực cảm hoặc
theo thói quen (có thể đúng mà cũng có thể sai), nên chỉ có hiện tượng tên người
là Sĩ được viết thành Sỹ hoặc ngược lại, tị (nạn) lại cũng có thể viết thành tỵ (nạn)… Dựa theo Hán Việt Từ
Điển của Đào Duy Anh, chúng tôi nhận thấy có thể ta có những trường hợp sau
đây viết lẫn lộn i thành y sau h, k, l, m, qu, t. Nếu bảo rằng phải viết tiếng hán việt theo
cách khác, e là không chính đáng, vì chữ viết kí âm không bao giờ “chia
hán/nôm” mà chỉ quan tâm đến việc ghi âm sao cho đúng như khi người nói phát âm
ra. Vì thế, không có lí do gì để phân biệt
mỹ (thuật) với (bánh) mì, hoặc là phân biệt (biệt) ly với li ti, lấy lí do
là một bên viết với y vì là từ hán
việt, bên kia viết với i vì là một từ
nôm na. Vả lại, thật là khó chấp nhận sự
kiện cho rằng có thể cả hai cách viết i
và y đi kèm với những âm khởi đầu h, k, l, m, qu, t, đều được coi là
đúng, là hợp cách như một tác giả đã ghi nhận.[16] Thật
ra, khi chúng ta viết Lý, Kỹ, Mỹ với
y, ta đã chọn thói quen và trực cảm
chủ quan hơn là dựa trên chính dữ kiện ngôn ngữ để viết chữ quốc ngữ. Có lẽ vì thế mà Việt Nam Tự Điển (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức (một công trình đồ
sộ của các học giả có trình độ làm việc cao, ra đời cùng một thời với Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh) đã
không theo thói quen này.
Hiện tượng bất nhất nói trên đã diễn
ra từ thời kì nào? De Rhodes và những
nhà sáng chế chữ quốc ngữ xem ra rất tách bạch về cách dùng chữ này – như lời dẫn
trong sách của ông đã cho thấy. Sang thế kỉ XVIII, quyển tự vị An Nam-La Tinh (Dictionarium Anamitico Latinum) soạn
xong năm 1773, cũng không thấy có tình trạng nước đôi trong một số cách viết chữ
i và y. Hiện tượng viết thông nhau giữa i và y chỉ thấy xuất hiện
vào thế kỉ XIX, khi có hàng loạt những quyển tự vị soan và in tại nhiều địa
phương khác nhau, do những nhà biên soạn không chuyên về ngôn ngữ. [17] Đến những
từ điển Huiụnh Tịnh Của (1895-6) hay là của Génibrel (1898) thì đã có dấu hiệu
của sự phân hóa giữa hai qui tắc: các ông vẫn viết i ở phần chính: hùinh, quình, hụich, huiên,… nhưng cũng
có những chỗ viết huyền, truyền, khuyên,
ly…
Đến những năm đầu thế kỉ thứ XX thì sự
lẫn lộn đã trở nên phổ biến: hai quyển từ điển cùng in năm 1931 mà lại theo hai
nguyên tắc chính tả khác nhau: Đào Duy Anh soạn Hán Vịêt Từ Điển thì chuộng y
khi viết với h, k, l, m, qu, t. Trong khi
đó Việt Nam Tự Điển của Khai Trí Tiến
Đức thì nhất loạt viết i trong các từ đi đầu với h, k, l, m, qu, t. Uy tín của
hai bộ từ điển đã kéo theo sự phân hóa về chính tả sau đó. Trong nhà trường miền
Nam trước 1975, quy định chính tả đã được minh thị trong các ấn bản Chương
Trình Trung Học do Bộ Quốc Gia Giáo Dục ấn hành hằng năm, rằng phải theo quy tắc
chính tả của Việt Nam Tự Điển của
Khai Trí Tiến Đức và Việt Ngữ Chánh Tả Tự
Vị của Lê Ngọc Trụ. Tuy thế, dường như nhà trường phổ thông không thiết tha
gì với chính tả, và dường như không mấy ai để ý quyển từ điển này đã viết chữ
quốc ngữ ra sao! Có người còn nói liều rằng
quyển từ điển này đã lạc hậu rồi. Phải, sẽ phải quên nó đi thôi nếu quả thật là
nó đã bị vượt bỏ. Nhưng mà cho đến nay vẫn
chưa có bộ từ điển nào thật có phương pháp nghiêm túc trong lối chọn mục từ, giải
nghĩa, và dẫn chứng văn liệu chính xác như nó.
Đó là điều đáng buồn chung cho những ai thích sự tiến bộ.
Trở lại hiện tượng i và y, có thể nói là hiện tượng lẫn lộn này tương đối mới mẻ so với lịch
sử 300 năm của chữ quốc ngữ. Có thể tạm
xác định mốc những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Vả chăng, bản đề nghị của Uỷ Ban Cải Cách Chữ
Quốc Ngữ (1902) đã xác nhận giả thuyết này.
Một hiện tượng khác cũng cần để ý là
tiếng Việt có đến 4 con chữ dùng để ghi hai âm: đó là âm /w/ được ghi bằng o và u: hoà/hào, mùa/màu; âm
/y/ được ghi bằng i và y: mai/may,
mới/mấy… Lại một lần nữa nguyên tắc âm vị học bị vi phạm. Hãy xét cặp mai/may: sự khác biệt giữa hai tiếng này
không nằm ở i/y mà chính là ở hai âm
a.
Một đàng, a được đọc dài, một
đàng âm a đọc ngắn; vậy để cho chính xác, phải ghi hai âm a đó thế nào cho khác nhau. Nhưng thói quen đã ghi như vậy.
Tưởng cũng cần nhắc lại hiện tượng h ghi trong nh và ch. Hai phụ âm nh và ch chỉ là mượn kiểu
ghi âm của tiếng Bồ; hoàn toàn không có hiện tượng bật hơi thở như trong bộ ba ph, kh, th. Mặc dù ngày nay h đã mất tính cách bật hơi
trong ph và giảm nhẹ trong kh, nhưng chữ quốc ngữ vẫn không vì thế
mà đổi theo.
Trở lên là những vấn đề đặt ra cho
người Việt khi suy nghĩ về việc giảng dạy tiếng Việt cho con em ở một thời kì
mà những hiểu biết về ngôn ngữ cho phép chúng ta rút ngắn những kiểu làm việc,
giảm thiểu những thừa thãi vô ích. Trong
ý nghĩa đó, bao nhiêu cố gắng của các thế hệ nghiên cứu tiếng Việt không có
nghĩa là làm phiền toái sự việc, mà ngược lại là những nỗ lực để nhìn nhận sự vật
một cách chính xác hơn. Thế tại sao, từ
1902 đến nay, những gắng công của những thế hệ nghiên cứu đều chưa thành công
trong việc làm cho chữ quốc ngữ thêm chính xác?
Chúng tôi không nghĩ là trách nhiệm đơn thuần thuộc về họ, những nhà
chuyên môn về ngữ học. Một cuộc vận động xã hội nào cũng cần sự tham gia của ba
yếu tố: chỉ đạo, công chúng và những cơ quan chức năng. Để vận động cho một cuộc
cải cách ngôn ngữ thì cần có những nhà chuyên môn ngữ học đề đạt dự án, và nhà
nước huy động các cơ quan chức năng (nhà trường và hệ thống truyên thông) để
thâm nhập quần chúng. Nhà trường Việt
Nam trước đây đã không làm đúng phần việc của nó trong sự gìn giữ chữ quốc ngữ
được ngày một tinh giản. Sách báo trong xã hội cũng không thật sự quan tâm và
hiểu thấu vấn đề, mà chỉ nối nhau theo thói quen.
3. Bài viết này không đặt vấn đề sửa đổi
chữ quốc ngữ. Việc đó để dành cho những cơ quan có thẩm quyền về sau này. Dụng ý duy nhất của người viết là phân tích một
vài khía cạnh của chữ quốc ngữ để mong nhận ra dáng vẻ sống động của hệ thống
chữ viết latin này trong dọc dài lịch sử chữ viết dân tộc. Chữ quốc ngữ đã trải
qua nhiều thay đổi từ nhiều thế hệ, do công phu của những người sử dụng ban đầu
– mà không nghi ngờ gì nữa – đều là những người có trình độ hiểu biết rành rẽ về
nó.
Trong tình trạng hiện nay, thiếu một
tổ chức thẩm quyền, việc sử dụng chữ viết đang chịu một thách đố của quy luật
phát triển tự nhiên. Dạy tiếng mẹ đẻ
trong hoàn cảnh đó thật là phức tạp. Những
ghi chú trên đây chỉ nhằm tìm một chỗ dựa cho việc soạn thảo bài giảng tiếng Việt
cho thế hệ trẻ mà không vương vấn giữa những phiền toái không cần thiết – trong
nhiều trường hợp chỉ là làm mất vẻ trong sáng của tiếng nói và chữ viết. Có thể
những phân tích này đi ngược chiều với cái thói quen của chính người viết và những
người ở cùng thế hệ với hắn. Nhưng mà, đối
với người tìm học, không thể không nói ra những gì mình hiểu và tin là đúng.
ĐOÀN XUÂN KIÊN
(Thế kỷ 21, số 30 (th. 10/1991), tr. 69-78)
(Thế kỷ 21, số 30 (th. 10/1991), tr. 69-78)
[1] Theo Lê
Trọng Khánh (1986) Sự hình thành và phát
triển chữ Việt cổ. Hà Nội: nxb. Viện Văn Hoá, tr. 21
[2] Chi tiết
trong hình 2, 3 và 4 trích theo Andrew Robinson (1995) The story of writing. London: Thames & Hudson ltd., tr.
104, 50 và 160.
[3] Đỗ Quang
Chính (1972) Lịch sử chữ quốc ngữ.
1620-1659). Ra Khơi, tr. 24-25
[4] Một bức thư của cha Pina gửi Bề Trên đầu năm
1623 đã được Roland Jacques phát hiện khi tìm hiểu về vai trò các nhà tiền
phong Portugal đối với buổi đầu chữ quốc ngữ. Xem R. Jacques (2001) "Công cuộc truyền giáo
tại Quảng Nam năm 1623 và vấn đề ngôn ngữ: Bức thư của Francisco De Pina"
in Định Hướng số 29, tr. 24. Xem
thêm: Roland Jacques (2003) "Về tác phẩm Các nhà tiền phong người Portugal
và ngôn ngữ học Việt Nam" in Định Hướng
số 34, tr. 148-160.
[5] Charles Maybon (1920) Histoire moderne du paye d’Annam (1592-1820).
Paris, p. 30
[6] L. Finot (1908). Trích theo Nguyễn Bạt Tuỵ
(1949), Chữ và vần Việt khoa học.
Saigon: Ngôn ngữ, tr. 7.
[7] A. Chéon (1905) "Notes sur les Muong de
la province de Son tay". BEFFEO. t. V, p.328
[8] Compte-rendu du premier Congrès international
des Etudes d'Etrême-Orient. BEFEO,
t.III, (1903) tr. 126-127. Cũng có thể xem tóm tắt bản đề nghị này trong: Nguyễn
Bạt Tuỵ (1949), sđd, tr 10-12.
[9] L. Cadière (1906) "Le question du quốc
ngữ", báo L'Avenir du Tonkin. từ
24 Septembre đến 10 Octobre 1906.
[10] Alexandre de Rhodes (1651) Dictionatium Annamiticum Lusitanum, et
Latinum. (Bản in lại của Nxb. KHXH), Tp.HCM, 1991. tr. 6
[11] A. De
Rhodes, sđd, tr. 8-9.
[12] A. De Rhodes, sđd, tr. 6.
[13] H. Maspéro(1912) "Études sur la
phonétiquehistorique de la langue annamite: les initiales". BEFFEO, t.XII, n.1, p. 46.
[14] A. De Rhodes, sđd, tr. 6.
[15] A. De
Rhodes, sđd, tr. 7.
[16] L.
Thompson (1965) A Vietnamese Grammar.
Seattle: Washington Uni Press, tr. 65
[17] Một vài thí dụ: Legrand De La Liraye (1874) Dictionnaire élémentaire annamite Francaise. Paris: Challamel Ainé
Libraire Editeur; Neccon Ab Ill & Rev. J.S. Theurel (1877) Dictionarium Annamitico Latinum. Ninh
Phú: Missionis Tunquini Occidentalis
No comments:
Post a Comment