Saturday 28 October 2023

 Phan Châu Trinh

- ánh đuốc duy tân xuyên thế kỷ

Đoàn Xuân Kiên



Những năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội do tác động trực tiếp và sâu bền của công cuộc duy tân mà cụ Phan và các bạn đồng chí hướng cùng gây thành một phong trào quần chúng sâu rộng.

Phong trào duy tân dấy lên sôi động trong một thời gian ngắn, từ năm 1905 đến 1908. Dù nhìn từ những góc độ nào, các nhà bình luận đều công nhận cụ Phan là lãnh tụ tiên phong của phong trào duy tân Việt Nam (chẳng hạn, ý kiến của học giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Xuân) (1). Từ ngày cụ Phan qua đời đến nay đã 90 năm rồi mà xem chừng hậu thế vẫn chưa khép lại những lời cái quan định luận. Bao nhiêu giấy mực xem ra vẫn chưa đủ nói về một con người đã nằm xuống, bao nhiêu lời tranh luận phát xuất từ nhiều góc nhìn xem chừng vẫn chưa ngã ngũ. Các nhà bình luận có thể đồng ý với nhau đến chừng mức như vậy, sau đó thì các ý kiến có vẻ phân tán: người thì bảo rằng chủ trương của cụ Phan là không tưởng (Phạm Văn Sơn) (2), người thì cho rằng cụ Phan đã thất bại trong việc lãnh đạo phong trào duy tân đến đích sau cùng của nó là làm thay đổi đất nước sang bước ngoặt mới (Huỳnh Lý)(2).

Xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng về mọi mặt: (a) về mặt chính trị, đất nước dần mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp. Công cuộc cần vương và văn thân đã bị đàn áp và tiêu trầm; (b) về mặt kinh tế thì thực dân Pháp bắt đầu khống chế và khai thác thuộc địa; (c) về mặt văn hoá, Nho học bị mất dần vai trò ý thức hệ chủ đạo. Chính trong thời gian này, làn sóng “tân thư” từ Trung Hoa tràn qua đã góp phần thức tỉnh một số nhà nho có ý thức cấp tiến. Kết quả là tại kinh đô Huế những năm ấy đã chuyền tay nhau bản luận văn “Thiên hạ đại thế luận” do nhà nho Nguyễn Lộ Trạch biên soạn. Năm 1903, khi vào kinh nhận chức quan thừa biện bộ Lễ tại Huế, cụ Phan đã sớm được đọc và tâm đắc với những luận điểm mới mẻ của thiên đại luận này. Những tư tưởng mới do tân thư đem lại đã sớm đưa cụ Phan và những nhà nho cấp tiến cùng thế hệ dứt khoát từ bỏ quan trường của chế độ phong kiến đương thời và đề xướng con đường duy tân mà các cụ tin tưởng sẽ đem lại tương lai mới cho đất nước.

Thế là cụ Phan và hai người bạn đồng chí hướng là hai ông nghè Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp lên đường hô hào duy tân. Cơ duyên đầu tiên để phát động phong trào là tại trường thi khảo hạch Bình Định. Ba nhà trí thức trẻ học vấn uyên thâm đã làm kinh động quan khảo hạch cùng sĩ tử trong trường thi khi được nghe đọc quyển văn gồm có bài thơ “Chí thành thông thánh” và bài phú “Danh sơn lương ngọc” do chính ba nhà khoa bảng trẻ giả dạng làm một nho sinh vào trường khảo hạch. Quyển văn của ba vị khoa bảng thác danh là Đào Mộng Giác này đã công khai hô hào cảnh tỉnh học trò sĩ tử còn mê muội với từ chương thi phú, ham công danh quên đất nước đang chìm trong vòng nô lệ. Khi chính quyền điạ phương truy lùng tác giả các bài trên thì các cụ đã rời trường thi mà tới Nha Trang trong nỗ lực tổ chức những hoạt động duy tân.

Sau chuyến nam du ấy, các cụ Phan, Huỳnh và Trần đã liên lạc với một số nhà nho trẻ và tiến bộ tại các nơi ba vị qua, nhằm mục đích thành lập các cơ sở doanh nghiệp, mở trường học chú trọng thực nghiệp, và tổ chức các nền nếp sinh hoạt theo tinh thần mới. Cơ sở nước mắm Liên Thành ra đời tại Phan Thiết, hàng loạt các cơ sở làm kinh tế hợp tác ra đời tại Quảng Nam: các thương hội, dệt các thứ vải dày có thể may âu phục. Cụ Phan đích thân làm gương cắt may, mặc bộ đồ tây bằng vải nội, hàng vải tơ lụa nội hóa được cải tiến. Lúc đó, làng Bảo An (Ðiện Bàn) nổi tiếng dệt đẹp, có thể cạnh tranh với tơ lụa Trung HoaLần lượt các nông hội phát triển tại Yến Nê (Ðiện Bàn) rộng chừng 20 mẫu, trồng khoai, sắn, bắp, cho trồng cây dương liễu để cản gió theo hai bên bờ sông. Mỹ Sơn (Duy Xuyên) rộng khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn (Ðại Lộc) khai phá nông trường để trồng lúa.

Các thương hội lần lượt được tổ chức có phương pháp đã đạt những thành quả tốt, như thương hội Phong Thử (Ðiện Bàn) do Phan Thúc Duyện trông coi, điạ điểm thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy ghe lớn có thể cập bến được, tấp nập người đến buôn bán. Hội An thương cuộc do ông bang Kỳ Lam phụ trách bán đủ loại sĩ và l các mặt hàng vải, gạo, đường, quế. Đặc biệt là các cơ sở thương nghiệp này cũng làm ăn theo cung cách mới: trên các món hàng bày bán đều có định giá rõ ràng, người bán hàng lịch sự tiếp khách… Phong trào duy tân tại Quảng Nam những năm ấy đã xây dựng được một cơ sở điển hình làm ngọn cờ đầu tại Phú Lâm (Tiên Phước) do Lê Cơ (1870-1918) tổ chức chương trình khuyến kích công thương nghiệp, chỉnh đốn cơ sở chính quyền, cơ sở giáo dục và sinh hoạt xã hội theo hướng duy tân.

Những thành tựu đầu tiên tại Quảng Nam đã từ từ ảnh hưởng đến thay đổi sinh hoạt khắp nơi. Tại Nghệ An lúc ấy cũng đã hình thành cơ sở duy tân với những thương hội do các nhà nho cấp tiến như ông nghè Ngô Đức Kế dẫn đầu. Các nhà nho tiến bộ tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương nghiệp là ông Ðỗ Chân Thiết mở hiệu Ðồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, mở tiệm thuốc Bắc Tụy Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng Tăng Bí mở hiệu Ðông Thành Xương ở Hàng Gai. Tại Sài Gòn có Minh Tân Khách Sạn của ông Phủ Chiếu.

Ngoài các cơ sở nông hội và thương nghiệp, phong trào duy tân còn là cuộc cách mạng lớn trên mọi lãnh vực đầu thế k 20. Các trường dạy thêm chương trình chữ quốc ngữ lan rộng trên khắp nẻo đường đất nước. Cao điểm của hoạt động văn hoá giáo dục duy tân là việc mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội năm 1907.

Sau chuyến bắc du ra Nghệ An và Hà Nội, cụ Phan đã sang Nhật qua đường dây Đông du để đích thân điều nghiên tình hình công cuộc Đông du cầu ngoại viện của cụ Phan Bội Châu. Từ chuyến Nhật du trở về, cụ Phan đã gửi một bức thư dài đề ngày 01/10/1906, gửi Toàn quyền Beau, nội dung phê phán đường lối cai trị cùa nhà đương cục. Cụ Phan nêu ra ba nguyên nhân dẫn đến tình cảnh bi đát của nước nhà buổi ấy, ấy là: (a) chính phủ Bảo hộ dung túng quan lại Việt Nam thành ra cái tệ "cô tức"; (b) chính phủ khinh rẻ dân Việt Nam thành ra cái tệ xa cách; (c) các quan lại Việt Nam nhận ra cái tệ xa cách ấy mà thành ra cái tệ hà hiếp dân. Bức thư này thường được sách vở gọi là “Đầu Pháp chính phủ thư”, đưa ra một số đề nghị cải cách lề lối cai trị theo hướng khai hoá dân trí, mở mang giáo dục và chấn chỉnh chế độ quan lại. Bức thư này có thể xem là mở đầu cho hàng loạt nỗ lực nêu cao chủ trương “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” mà cụ Phan bền bỉ theo đuổi suốt đời. Bức thư năm 1906 của cụ Phan sau đó cũng được chuyền tay khắp nơi, đã gây chấn động trong công chúng cũng như giới quan lại.

Chỉ trong một thời gian ngắn, ba năm (1905-1907), các cơ sở công thương và nông nghiệp, trường học đã dấy lên làn sóng duy tân cao độ, khiến nhà nước bảo hộ lo ngại. Khi phát khởi phong trào nông dân biểu tình kháng thuế tại Trung kì năm 1908, nhà nước bảo hộ đã nhân cơ hội này ra tay trấn áp dữ dội, bắt bớ các nhà nho bị xếp vào sổ đen những người cầm đầu phong trào dân chúng có hành vi bạo động phản kháng chính quyền bảo hộ qua cuộc biểu tình rầm rộ mà sử sách gọi là cuộc “Trung Kì Dân Biến”. Cụ Phan và hàng loạt các nhà nho lãnh đạo phong trào duy tân mới dấy khởi lần lượt bị bắt bớ, và xử án rất nặng, hoặc là đày ra Côn Đảo (cụ Phan và rất đông các vị lãnh đạo phong trào tại khắp nơi), hoặc bị xử chém (cụ nghè Trần Quý Cáp, Trần Thuyết, Ông Ích Đường...). Sau đợt bắt bớ tù đày đó là cuộc khủng bố toàn diện nhằm mục đích xoá bỏ mọi dấu vết của phong trào duy tân vừa phát khởi và còn non trẻ.

Dầu vậy, ngọn lửa duy tân không hề tắt. Do kết quả của các vận động trong công luận Pháp thông qua các nhà trí thức hoạt động trong Hội Nhân Quyền Pháp, cụ Phan và các vị lãnh đạo phong trào duy tân lần lượt được trở về đất liền. Cụ Phan đã chọn con đường sang Pháp đấu tranh tại chính xứ sở của cuộc cách mạng dân quyền. Từ đây cụ Phan bắt đầu những ngày tháng hoạt động duy tân tại đất Pháp.

Ngay từ những buổi đầu tại Paris, cụ Phan liên kết được với một số nhà trì thức Việt Pháp để cùng hoạt động. Cụ Phan cùng Phan Văn Trường trở thành cột trụ của phong trào Việt Kiều tại Pháp trong buổi đầu. Hai vị soạn các bản điều trần gởi cho chính phủ Pháp, nêu rõ tình cảnh Việt Nam dưới chế độ bảo hộ Pháp: không có tự do, bị bắt bớ tù đày... Cụ Phan soạn “Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Kí, Jules Roux dịch sang Pháp văn để đệ trình chính phủ Pháp nhằm kêu oan cho Trần Quý Cáp và nỗi oan ức của người Việt b trấn áp sau đợt dân chúng biểu tình xin giảm sưu thuế tại Trung kì, gi thư phản đối chính sách bảo hộ tại Việt Nam.

 Trong 14 năm hoạt động tại Pháp, cụ Phan không ngừng vận động trong giới kiều bào tại Pháp cùng dư luận bản xứ trong nỗ lực vận động duy tân cho nước nhà. Cụ Phan cùng các bạn Việt Pháp dùng phương tiện báo chí, diễn thuyết để hoạt động liên tục trong thời gian này. Lần lượt, cụ Phan và nhóm bạn kiều bào trong Hội đồng bào thân ái tại Paris đã liên tục có những hoạt động theo chủ trương duy tân. Năm 1913, cụ viết báo phản đối việc làm thiếu đạo đức của Khâm sứ Mahé trong việc đào lăng vua Tự Ðức tìm vàng, đi diễn thuyết trong tập thể kiều bào, kêu gọi lòng yêu nước hướng về quê hương và thường tiếp xúc với người Pháp có lòng nhân đạo bác ái, bày tỏ nguyện vọng của mình và chỉ trích chính sách cai trị tàn ác của Pháp ở Ðông Dương...

Năm 1919, Cụ Phan và luật sư Phan Văn Trường đưa ra bản yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Versailles năm 1919 mà yêu sách thứ 3 có liên quan đến quyền tự do báo chí và tự do tư tưởng.

Suốt đời, cụ Phan cho rằng quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là tiền đề để thực hiện các quyền tự do căn bản khác của người dân. Ta biết rằng khi về nước diễn thuyết về “Đạo đức và luân lý Đông Tây”, cụ có nói thế này: “…chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do xuất bản, được tự do diễn thuyết thì những người ra lo việc nước, việc đời bên họ biết là bao nhiêu.”

Một chi tiết khác dưới đây cũng cho thấy thêm niềm xác tín của cụ Phan về quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng: khoảng những năm 1922-1923, cụ Phan và một bạn Việt kiều tên là Trần Lê Luật có ý định thành lập một “diễn đàn“ của người Việt tại Paris. Bản kế hoạch lập “Việt kiều diễn đàn” cho rằng:  “Diễn thuyết không bằng cách ‘định luận’, nghĩa là lời diễn thuyết dù phải dù chẳng (phải) không ai được cãi lại, nhưng dùng cách ‘nghịch luận’ để ai nấy được tự do biện luận cho xác lẽ phải chăng”. Điều này cho thấy cụ Phan đã đi sớm trước thời đại mình và xây dựng một quan niệm về đa nguyên tư tưởng rất phù hợp với phương pháp tư duy khoa học hiện đại.

Nhân chuyến du hành của vua Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo tại Marseilles năm 1922, cụ Phan biện soạn một bức thư dài mà về sau được gọi là “Thư thất điều”, gửi cho vua, trong đó cụ hài ra bảy tội lớn của ông vua bù nhìn này: (1) tôn quân quyền, (2) thưởng phạt không công bình, (3) chuộng sự quỳ lạy, (4) xa xỉ vô đạo, (5) phục sức không đúng phép, (6) du hạnh vô độ, (7) sự ám muội trong việc Pháp du. Kết thư, cụ Phan cho rằng không những vua xứng đáng bị phế truất mà chính cái chế độ “quân chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời quân chủ các thời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của quốc dân vậy”.

Bức thư dài này sẽ hô ứng rất nhịp nhàng với những luận đề chính mà cụ Phan nêu ra trong hai bài diễn thuyết tại Sài Gòn năm 1925, khi cụ về tới Sài Gòn: “Đạo đức và luân lý Đông Tây” và “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”.

Trong những công trình biên soạn thời gian 14 năm tại Pháp và thời gian về tại Sài Gòn, cụ Phan đã lần lượt đưa ra những nét lớn về quan niệm đầy đủ của mình về công cuộc duy tân đất nước toàn diện và triệt để. Công cuộc ấy vẫn thuỷ chung như nhất với chủ trương ban đầu từ những năm xưa, khi vừa dấy khởi phong trào duy tân: “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Thật vậy, nếu trong những năm đầu khi mới phát động duy tân ở quê nhà, cụ Phan chỉ mới kịp đưa ra những tuyên cáo cùng quốc dân về những tệ trạng của đất nước trong chế độ bảo hộ thuộc địa Pháp, và hô hào duy tân cải cách để phế bỏ nguyên do đầu tiên và cuối cùng của tệ trạng ấy (là văn hoá ngu dân nấp dưới vỏ Nho học suy đồi, chế độ quan trường hủ lậu), thì trong thời gian 14 năm tại Pháp, cụ Phan đã có nhiều dịp khai triển rõ thêm những quan niệm chủ trương lớn, làm nên một cương lĩnh chính trị mà cụ theo đuổi cho đến cuối đời. Bàng bạc trong một loạt các công trình biên soạn trong thời gian này, gồm có “Tỉnh quốc hồn ca” (bài 2), Yêu sách 8 điểm gửi hội nghị Versailles, “Thư thất điều”, “Pháp Việt liên hợp hậu chi Tân Việt Nam”, “Đông dương chính trị luận”, “Đạo đức và luân lý Đông Tây” và “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”, có thể nói cụ Phan đã đề ra những chủ trương lớn cho một khung chính trị tương lai cho một nước Việt Nam thời duy tân. Trong một nỗ lực nhận diện bước đầu, một nhà hoạt động dân quyền thời hiện đại đã nêu lên những nét chính của cương lĩnh chính trị duy tân này (4). Đáng chú ý là những nét lớn về một cương lĩnh chính trị như kể trên, đặt vào thời điểm những thập niên đầu thế kỉ XX, khi mà cả nước đang chìm đắm trong màn đêm phong kiến & thuộc địa, có thể nhận ra tính chất cách mạng của chủ trương chính trị duy tân do cụ Phan đề ra. Rồi đây, khi cụ Phan qua đời, những trí thức trẻ về sau như Nguyễn An Ninh và Phan Khôi... tiếp tục cổ vũ trên các diễn đàn báo chí trong Nam do các vị này bỉnh bút.

Đám tang Phan Châu trinh tại Saigon (1925)


Chúng ta cũng lại biết rằng, bánh xe lịch sử đã ngăn trở việc thực hiện rốt ráo những chủ trương chính trị duy tân. Khi đất nước giành lại được độc lập từ tay Pháp, năm 1945, nhà nước dân chủ cộng hoà đã thiết lập một chế độ chính trị khác với giấc mơ duy tân Việt Nam mà cụ Phan và các bạn đồng chí đề ra từ những năm đầu thế kỉ.

Theo quan điểm của nhà nước dân chủ nhân dân tại miền Bắc trong giai đoạn 1945 trở về sau, quan điểm duy tân của cụ Phan và các nhà nho cấp tiến đầu thế kỉ XX bị xem là chủ trương chính trị ảo tưởng (vì muốn đòi được tự trị trong tay thực dân Pháp), cải lương nửa vời theo chủ nghĩa dân chủ tư sản dân quyền Pháp trong khi thời đại đã tiến qua kỉ nguyên dân chủ vô sản (3). Tại miền Nam, trong thời kì chia cắt 1954-1975 cũng có những nhà phê bình cho rằng chủ trương chính trị của cụ Phan là không tưởng (2).

Tuy nhiên, lí luận dù được mệnh danh là khoa học đến đâu thì cũng không qua được thực tiễn cuộc sống. Kể từ khi phong trào duy tân dấy khởi đến nay đã hơm 100 năm, đất nước chúng ta đã trải qua bao nhiêu biến chuyển. Các chế độ cộng hoà nối tiếp nhau trên đất nước ta từ 1945 đến nay không những đã không tạo lập được những chế độ xã hội theo ước nguyện của thế hệ những nhà nho duy tân, mà ngược lại, có thể nói không ngoa rằng cho đến ngày nay, đất nước chúng ta vẫn nguyên vẹn là một xã hội chìm đắm trong đêm trước của một cuộc duy tân đúng nghĩa.  

Nói như nhà văn Nguyên Ngọc khi dẫn lại một nhận định của một nhà sử học Pháp, những nan đề xã hội Việt Nam vẫn như còn nguyên vẹn sau hơn trăm năm nay (5). Có thể thay nhóm từ nói về chế độ quân chủ hủ bại và chế độ thực dân thuộc địa Pháp trong các tác phẩm của cụ Phan bằng các từ ngữ liên quan đến xã hội hiện tại, chúng ta có thể vẫn nhận ra những nét tương đồng khá lớn của xã hội Việt Nam cách nhau hàng trăm năm. Vẫn là xã hội nhiều tệ nạn, giới cầm quyền ham mê quyền chức mà không vì dân vì nước, vẫn là một nền giáo dục giáo điều, nhồi nhét xa rời thực tiễn...

Sau những năm tháng dài sống trong chế độ toàn trị, ngày hôm nay, thế hệ thanh niên sinh viên Việt Nam đã và đang trui rèn để vượt qua nỗi sợ mà giúp nhau chấn dân khí trong thời đại mới. Nhưng như thế vẫn chưa nói đủ bức tranh duy tân của thời đại hôm nay, nếu chúng ta dừng lại ở đấy. Không, cụ Phan đã một đời dấn thân hoạt động nhiều mặt, từ viết sách, diễn thuyết, vận động chính trị, xây dựng tổ chức hoạt động chính trị duy tân bất bạo động. Chính cụ đã không ngần ngại tự nhận mình là một “nhà hoạt động chính trị ở vương quốc An Nam”. Cuộc vận động chính trị duy tân ngày hôm nay đang diễn ra dưới dạng thức cập nhật của thời đại. Cũng vẫn là chủ trương khai dân trí và chấn dân khí, các nhóm bạn blogger, những hội quần chúng tại khắp nơi nơi đang xây đắp nền móng cho hoạt động xã hội dân sự. Thế hệ hôm nay đang học tập để vận dụng những sách lược đấu tranh đa dạng mà thế hệ cụ Phan đã từng vận dụng, để thích ứng với hoàn cảnh đất nước hiện tại. Nhà nước toàn trị hiện nay cũng như chính phủ bảo hộ trăm năm trước, ra sức trấn áp hoạt động xã hội dân sự, cũng vì họ rất lo ngại tầm ảnh hưởng của những “diễn biến hoà bình” theo tinh thần duy tân mà cụ Phan đề xướng từ trăm năm trước.

Xem vậy thì những gì cụ Phan ấp ủ trăm năm trước đến nay vẫn còn tính cách rất mới, rất bức thiết, đòi hỏi quốc dân phải suy ngẫm lại để tiếp tục con đường duy tân ngõ hầu đưa đất nước đi đến phồn vinh và văn minh thật sự. Ngày nay, trên khắp vùng đất nước cũng như tại hải ngoại, phương tiện truyền thông hiện đại đang góp phần của nó trong việc phát huy chủ trương khai dân trí và chấn dân khí, giúp cho thế hệ trẻ tuổi nắm bắt đúng mạch đập của thời đại để nhận ra những gì cụ Phan và thế hệ duy tân đầu tiên đưa ra đến nay vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự của nó. Đây chính là những dấu hiệu đáng mừng cho công cuộc duy tân dở dang mà cụ Phan còn để lại cho thế hệ chúng ta.

                                                                                              Đoàn Xuân Kiên



(1)  Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục. Nxb. Lá Bối, 1967; Nguyễn Văn Xuân,  Phong        trào duy tân. Nxb. Lá Bối, 1971
(2)   Xem: Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004; Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Q. 5, tập Trung). Tác giả tự xuất bản, 1963.
(3)   Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, trang 120.
(4)   Xem: Mai Thái Lĩnh, “Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh”, Talawas, 02/11/2010
(5)  Nguyên Ngọc, Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương trình vĩ đại bị dở dang của Phan Châu Trinh”, Diễn Đàn, 22/03/2011.

Saturday 8 July 2023

 

Giáo dục Việt Nam không nên hãnh tiến vì một bài báo hời hợt

Quốc Phương, cộng tác viên RFA Tiếng Việt từ London
05-07-2023


Nhà nghiên cứu: Giáo dục Việt Nam không nên hãnh tiến vì một bài báo hời hợtThí sinh và phụ huynh xin chữ cầu may tại Văn Miếu trước một kỳ thi. Ảnh chụp ngày 7/2/2013.
 Hoàng Đình Nam/AFP

Bài báo trên tờ The Economist của Anh cuối tháng 6/2023 ngợi ca giáo dục Việt Nam ‘đứng vào nhóm hàng đầu thế giới’, và truyền thông Nhà nước Việt Nam trích lại, giới thiệu rầm rộ như một thành tích. Đó chỉ là một bài báo ‘làm đẹp lòng giới chức quản lý giáo dục Việt Nam’, ‘một giọt nước mát giữa cơn nắng hạn của giáo dục’ nước này, trong lúc về thực chất, một nền giáo dục mà nhiều giáo viên phải chuyển nghề, bỏ nghề, học sinh, sinh viên tốt nghiệp không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, xuất phản điểm còn thấp, lại chưa đứng trên vai 'người khổng lồ' v.v… làm sao có thể coi được là đứng hàng tốp đầu thế giới.

Nhà nghiên cứu giáo dục và ngữ học Đoàn Xuân Kiên từ London, và Tiến sĩ Tạ Long, nhà nghiên cứu nhân học thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam từ Hà Nội, đã dành cho Đài Á Châu Tiếng Việt một cuộc trao đổi bình luận bài báo nói trên có tựa đề “Tại sao các trường học của Việt Nam tốt đến như vậy?” (*) đăng trên The Economist, mà sau đây là nội dung.

 ‘Chỉ làm đẹp lòng chính quyền Việt Nam và giới chức quản lý giáo dục’

RFA: Quý vị nghĩ thế nào khi bài báo trên gợi ý rằng Giáo dục Việt Nam trẻ em ở Việt Nam ‘đang được học tại một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất thế giới’?

Ông Tạ Long: Trước tiên, nền giáo dục Việt Nam chưa dựa trên hai bệ phóng sau đây, thứ nhất Việt Nam chưa phải nước phát triển, và thứ hai Việt Nam chưa có nền giáo dục tự chủ và khai phóng, vì riêng hai lẽ đó, tôi cho rằng Việt Nam chưa thể có nền giáo dục trong nhóm tốt nhất thế giới được.

Ông Đoàn Xuân Kiên: Theo tôi, bài báo trên tuần báo The Economist cố nhiên là làm đẹp lòng chính quyền và các giới chức quản lí giáo dục Việt Nam. Chúng ta không quên những than phiền, những trăn trở về hiện trạng nền giáo dục nước nhà trên khắp các mặt: định hướng giáo dục, chương trình học, đào tạo thầy cô giáo theo phương hướng giáo dục hiện đại... Cho nên bài báo nói trên theo tôi như một giọt nước mát giữa cơn nắng hạn của giáo dục Việt Nam.

Nói thế cũng có nghĩa là bài báo nói trên chưa thể gọi là một đánh giá đúng và toàn diện về nền giáo dục Việt Nam, cho nên bảo rằng "trẻ em Việt Nam đang được học trong một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất thế giới" thì có phần quá đáng nếu không nói rằng ảo tưởng. Nhà giáo dục Việt Nam cần quan tâm đến những nghiên cứu khoa học thực sự để có những bài học quý cho việc hoạch định và phát triển giáo dục nước nhà. Trong chiều hướng học hỏi nghiêm túc như thế, một bản đánh giá về giáo dục khu vực (**) đáng cho ta suy nghĩ hơn nhiều so với bài báo trên The Economist.

Thực ra, nội dung bài báo chỉ so sánh và lượng giá thành quả giáo dục cấp cơ sở (năm năm đầu trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc gia). Trong chừng mức ấy thì những lời khen tặng giáo dục nước ta có thể tạm chấp nhận được nếu chỉ nhìn ở giáo dục bộ môn. Nhưng một nền giáo dục quốc gia không chỉ hạn định trong các môn học riêng rẽ mà là một tổng thể những yếu tố cấu thành nên giáo dục đó.

Bài báo tỏ ra hời hợt nếu chúng ta nhìn nhận giáo dục một cách toàn diện chứ không chỉ riêng lẻ một vài môn học ở cấp cơ sở (trong độ tuổi 5 đến 8 tuổi) như bài báo đã cho thấy.

giáo dục 2.jpeg
Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn dự Hội nghị thượng đỉnh giáo dục tại Hoa Kỳ vào ngày 19/9/2022

‘Giáo dục không đạt được một bước nhảy qua 48 năm ĐCS nắm quyền’

RFA: Một nhóm lý do về điều được cho là dẫn tới ‘thành công’ của nền giáo dục ‘đứng vào nhóm đầu thế giới’ của Việt Nam mà tác giả bài báo trên The Economist đã đưa ra, một cách cụ thể, quý vị có ý kiến gì?

Ông Tạ Long: Đầu tư cho giáo dục luôn là ưu tiên số một ở Việt Nam từ thời phong kiến tới nay vì nó là hướng thoát nghèo và lập nghiệp tốt nhất, an toàn nhất, lại có thể bỏ vốn dần dần rất phù hợp với hoàn cảnh đa số dân cư là tiểu nông, tiểu công, tiểu thương và làm thuê ăn lương ‘ba cọc ba đồng’ phổ biến trong xã hội Việt Nam.

Nhưng sự phát triển giáo dục của đất nước hiện nay lại theo phương thức quản lý mang tính áp đặt, rập khuôn, xin – cho, dạy nhồi nhét, học thuộc đề thi, dạy và học vì thành tích, sách giáo khoa hệ tiểu học và trung học cơ sở không thống nhất và luôn thay đổi, điều không thấy trong giáo dục trước đây của Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới, chế độ sử dụng và đãi ngộ giáo viên chưa được thỏa đáng khiến nhiều giáo viên công lập bỏ nghề hoặc chuyển sang hệ tư thục.

Ngoài ra, nền giáo dục không mang tính cạnh tranh, thiếu tính tự chủ, khai phóng, thiếu dạy tư duy và thực hành. Tất cả những vấn nạn đó, theo tôi, đã hạn chế sự bứt phá của giáo dục Việt Nam cũng như của các học sinh khiến nhiều gia đình khá giả đã cho con du học ngay từ hệ phổ thông, thậm chí từ phổ thông cơ sở. Và những vấn nạn trên đã khiến nền giáo dục Việt Nam trì trệ, khó có thể nằm trong nhóm tốt nhất trên thế giới.

Ông Đoàn Xuân Kiên: Như đã đề cập, bài báo chỉ giới hạn trong thành quả dạy học trong vòng năm năm đầu của một nền giáo dục nhìn từ thành quả ba bộ môn: đọc và viết tiếng mẹ đẻ; toán, và khoa học. Những thành tích về đọc và viết, về toán và khoa học hẳn nhiên là những điểm mạnh của giáo dục cơ sở của Việt Nam từ bao lâu nay, chứ không phải riêng của nhà nước và chính quyền ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta không quên là trước 1975, các đoàn học sinh thi giải toán quốc tế từ hai miền Nam, Bắc của Việt Nam đều từng đạt thành tích đáng ghi nhớ. Việc học đọc và viết tiếng Việt trong nhà trường cơ sở cũng đạt thành quả đáng ghi nhận so với các ngôn ngữ khác. Biểu đồ về thành tích đọc và viết không có gì khó hiểu nếu ta so sánh việc dạy đọc và viết các ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á hay Ấn Độ (!) như trong bài báo của The Economist.

Bài báo có nhắc đến điều được cho là ‘sự quan tâm’ của đảng cộng sản cầm quyền và nhà nước ở Việt Nam trong việc quản lí giáo dục. Tác giả bài báo chỉ không biết được là sự quan tâm lãnh đạo đó suốt 48 năm qua đã không tạo được một bước nhảy cho giáo dục Việt Nam. Những ai quan tâm đến giáo dục Việt Nam, theo tôi, sẽ không an tâm khi đọc đến phần cuối của bài báo khi tác giả nói về vài vấn nạn của giáo dục Việt Nam hiện nay, mà theo đó, thứ nhất là nhà giáo bỏ dạy học để chuyển nghề khác thu nhập khá hơn; thứ hai là sản phẩm của giáo dục ("đầu ra") không tương ứng với nhu cầu của nền kinh tế nước nhà. Một nền giáo dục đứng hàng tốt nhất thế giới sao lại có thể như thế được.

RFA: Tuy thế, liệu có thể rút ra được điều gì hữu ích từ bài báo trên The Economist, còn có câu hỏi nào khác có thể đặt ra hay không qua nhận định của tác giả?

Ông Tạ Long: Những thông tin và nhận định trên báo Anh The Economist ngày 29/6 về thành tích xuất sắc của học sinh Việt Nam trong các đánh giá của quốc tế về khả năng đọc, làm toán và khoa học và của Ngân hàng Thế giới (WB) về vượt trội của học sinh Việt Nam về tổng điểm học tập so với các bạn ở Malaysia và Thái Lan, mà còn so cả Anh và Canada, theo tôi chưa đủ sức thuyết phục vì nó chỉ dựa trên những khảo sát sơ bộ cũng như những kết quả thi quốc tế, chưa phải những khảo sát mang tính đại diện trong cả nước.

Khi đánh giá tầm mức của giáo dục Việt Nam cần xem xét nó dựa trên nền tảng phát triển nào của đất nước và tính chất của nền giáo dục cũng như phương thức quản lý của nền giáo dục đó là gì. Tức nó có mang tính tiên phong, cạnh tranh, tự chủ và khai phóng hay không.

Ông Đoàn Xuân Kiên: Tôi cho rằng bài báo trên The Economist thiếu hẳn một quan sát rộng và sâu về nền giáo dục Việt Nam. Cũng không thể đòi hỏi một nhà nhà nghiên cứu kinh tế học người nước ngoài làm quá khả năng của họ khi nghiên cứu trong thời gian ngắn gọn về nền giáo dục Việt Nam. Có chăng đó chỉ là một nỗ lực tìm hiểu và so sánh về một vài mặt thành tựu của một số nền giáo dục cơ sở tại một số quốc gia đang phát triển như chủ đích bài báo có nhắc đến.

Nhưng sử dụng bài báo cạn cợt, một chiều này để lảng tránh trách nhiệm vô cùng lớn là canh tân giáo dục Việt Nam theo chiều hướng hiện đại hoá, sao cho nhân cách học sinh và sinh viên được phát triển tối đa, theo tôi là điều không nên.

Để làm được điều này thì Việt Nam không nên chỉ hài lòng với thành tích một vài bộ môn nào đó, mà cần chú trọng các mặt của một nền giáo dục toàn diện và phát triển. Có thế mới có thể nói đến niềm tự hào là "trẻ em Việt Nam đang được học trong một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất thế giới".

giáo dục 3.jpeg
Sinh viên dự kỳ thi vào đại học ở trường Đại học Khoa học Công nghệ Hà Nội hôm 1/7/2015. AFP

‘Chưa đứng trên vai người khổng lồ, bệ phóng xuất phát điểm còn thấp’

RFA: Theo quý vị, nhìn vào giáo dục Việt Nam hiện nay, nếu có một cái nhìn khách quan, thực chất nhất, thì đâu là (những) điểm nên quan tâm nhất? Có gì cần lưu ý để cải thiện hay không?

Ông Tạ Long: Điểm nên quan tâm nhất về giáo dục Việt Nam theo tôi là cần giải quyết các vấn nạn sau đây trong giáo dục: thứ nhất là vấn đề đào tạo, tuyển dụng và chế độ đối với đội ngũ giáo viên và giảng viên, thứ nhì là giảm tải chương trình và vấn đề dạy thêm, học thêm, thứ ba là vấn đề sách giáo khoa, thứ tư là vấn đề học ngoại ngữ, thứ năm là gian lận trong thi cử, thứ sáu là gian lận bằng cấp, thứ bảy là vấn đề đạo đức học sinh và bạo lực học đường, thứ tám là lạm thu và quản lý nhà trường, và thứ chín, nhưng chưa phải là cuối cùng, là vấn đề cơ sở vật chất và điều kiện giảng dạy còn hạn chế ở vùng sâu, vùng xa thuộc biên giới, hải đảo.

Việt Nam luôn có truyền thống ưu tiên đầu tư cho giáo dục để đào tạo hiền tài, khơi nguồn nguyên khí quốc gia. Truyền thống này sẽ được toàn xã hội chung tay vun đắp nếu giáo dục đất nước mang tính tiên phong, cạnh tranh, tự chủ và khai phóng; hiền tài được trọng dụng.

Ông Đoàn Xuân Kiên: Nhà giáo dục Việt Nam cần để tâm theo dõi những nghiên cứu khoa học khu vực để nhìn rõ hơn vị thế đất nước chúng ta trong toàn cảnh giáo dục khu vực. Cụ thể là chúng ta cần quan tâm đến mấy điều này:

Thứ nhất, cần hiện đại hoá nền giáo dục Việt Nam theo kịp đà tiến chung của thế giới. Không nên lấy cớ là đất nước ta chưa phát triển để quanh quẩn trong những "cải cách" vá víu giả tạo, làm chậm lại đà tiến cần thiết cho giáo dục Việt Nam trong một thời đại của thế giới phẳng như hiện nay;

Thứ nhì, cần hoạch định chương trình nâng cao phẩm chất giáo dục cho các cấp, từ cơ sở lên phổ thông và đại học, cao học. Ngoài ra cũng cần quan tâm phát triển giáo dục tráng niên hay giáo dục suốt đời (lifelong learning) trong bối cảnh phát triển đất nước hiện nay;

Tiếp đến, thứ ba là cần định hướng lại giáo dục Việt Nam, thoát li giáo dục ý thức hệ giáo điều, cần xây dựng nền giáo dục phát triển nhân cách để xây dựng thế hệ con người Việt Nam tương lai thật thà, có tư duy khoa học và tình yêu thương người và xã hội sâu sắc.

RFA: Tóm lại, nếu có thể kết luận ngắn gọn nhất có thể, theo quý vị, giáo dục Việt Nam hiện nay có thực sự ‘đứng trong nhóm tốt nhất thế giới’ hay không?

Ông Tạ Long: Như trên tôi đã nói giáo dục Việt Nam chưa đứng trên vai người khổng lồ, tức bệ đứng phát triển của đất nước còn thấp, lại còn nhiều tồn tại trong dạy và học, trong sử dụng nguồn nhân lực, chẳng hạn với đội ngũ giáo viên và những người đã được đào tạo, nên theo tôi chưa thể "đứng trong nhóm tốt nhất thế giới".

Ông Đoàn Xuân Kiên: Điểm qua những khái lược đã được đề cập, câu trả lời của tôi cũng là ‘chưa thể’, và tôi xin nhấn mạnh thêm rằng những ai thật lòng yêu thương Việt Nam và hướng tới tương lai, sẽ không hãnh tiến, tự mãn với hiện trạng giáo dục Việt Nam bây giờ, càng không nên dựa vào một bài báo hời hợt, phiến diện về giáo dục Việt Nam để lơi lỏng những việc làm cấp thiết mà đất nước chúng ta đã hoài phí thời gian gần nửa thế kỉ nay.

Trên đây là ý kiến trên quan điểm riêng của hai nhà quan sát: Tiến sĩ Tạ Long, nhà nhân học có nhiều năm làm việc tại Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (VASS) tại Hà Nội, ông từng tham gia nhiều dự án, nghiên cứu, tư vấn, hội thảo và tọa đàm về phát triển bền vững, giáo dục, giới và trẻ em, đặc biệt nghiên cứu cả ở các địa bàn có các cư dân sắc tộc bản địa ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; và Nhà nghiên cứu giáo dục; ngữ học Đoàn Xuân Kiên từ London, ông Đoàn Xuân Kiên tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn năm 1970, từng giảng dạy Trung học tại tỉnh Vĩnh Long; sau 1975, định cư tại London, ông từng làm việc cho các tổ chức British Refugee Council, Refugee Action, Save The Children Fund, trước khi trở lại ngành giáo dục và làm việc tại Phòng Giáo Dục quận Lambeth, thuộc London, Anh quốc.

Tham khảo: (*) https://www.economist.com/asia/2023/06/29/why-are-vietnams-schools-so-good

(**) https://clarivate.com/lp/global-research-report-on-south-and-southeast-asia/

Friday 21 October 2022


Giáo sư NGUYỄN VĂN TRUNG 
(1930-2022)


 Giáo sư Nguyễn Văn Trung vừa qua đời hôm 19/10/2022. Ông là một khuôn mặt lớn của sinh hoạt văn hoá miền Nam trong suốt 21 năm tồn tại của chế độ Việt Nam Cộng Hoà (1954-1965). Sau 1975, ông vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu trong lĩnh vực văn hoá, phần lớn vẫn còn ở dạng bản thảo.

Trong thời gian làm chủ bút trang báo mạng Thông Luận (2005-2011), chúng tôi có biên tập, hiệu đính và giới thiệu tập Hồ sơ Lục Châu Học mà ông hoàn tất đã lâu nhưng chưa có cơ duyên xuất bản. Phiên bản đăng trên Thông Luận có một số khác biệt với bản in trong nước gần đây, cụ thể là chúng tôi bổ sung phần viết về truyện Thầy Lazaro Phiền mà Gs Trung xác định đó là một phần trong bản thảo Lục Châu Học.
Nay thì giáo sư Trung đã ra đi nhưng sự nghiệp văn hoá của ông còn mãi. Xin kính cẩn nghiêng mình trước anh hồn giáo sư.
*
Thầy Trung tại Strasbourg (Pháp), 2003

Thầy Trung tại nhà (Montreal, Canada), 2005


Dưới đây chúng tôi xin trích lại Lời Giới Thiệu bản hiệu đính Lục Châu Học trên báo mạng Thông Luận, trong đó chúng tôi có nêu lại những nét lớn của một sự nghiệp văn hoá mà giáo sư cống hiến cho sinh hoạt học thuật Việt Nam nửa sau thế kỉ XX.



HỒ SƠ VỀ LỤC CHÂU HỌC
Dựa vào sách báo văn, sử, tôn giáo bằng chữ quốc ngữ
xuất bản ở miền Nam (1865-1930)
TÌM HIỂU CON NGƯỜI Ở VÙNG ĐẤT MỚI
Nguyễn Văn Trung

 Lời giới thiệu:


Giáo sư Nguyễn Văn Trung là một khuôn mặt quen thuộc của sinh hoạt học thuật tại Sài Gòn suốt những thập niên 1950, 1960 và 1970. Ông đã tạo được những ảnh hưởng sâu rộng trong sinh hoạt tri thức thời đó là do ông là một giáo sư đại học nổi tiếng, lại viết và xuất bản đều đặn nhiều công trình nghiên cứu có những khám phá mới mẻ, và còn là người hoạt động báo chí rất bền bỉ. Nhưng giới trí thức trẻ ở Sài Gòn ngưỡng mộ ông là qua những công trình học thuật giàu chất cấp tiến, luôn mang tính cách “đặt lại vấn đề”.


Phong cách trí thức đó đã không biến ông trở thành một trí thức miệt mài với sách vở mà xa cách hiện thực sống động của xã hội miền nam lúc đó. Ông là người chủ suý của những diễn đàn trí thức dấn thân tại miền Nam thời kì chia cắt đất nước. Quan điểm văn hoá và chính trị của ông được phổ biến sâu rộng cũng là qua các diễn đàn đó, từ Đại Học (1957), đến tập san ronéo Hành Trình (1964-65), rồi Đất Nước (1966), Trình Bày (1967-72), ông đã là một khuôn mặt trí thức dấn thân tiêu biểu của miền Nam trong suốt thời kì dài.
Sau năm 1975, người trí thức dấn thân trước kia sớm bị “đặt trong tầm ngắm" của giới lãnh đạo chính trị mới, và do vậy đã gặp nhiều khó khăn trong công việc giảng dạy và nghiên cứu. Mặc dầu vậy, ông vẫn giữ phong thái tích cực của người trí thức, và sẵn sàng góp lời “thanh nghị” khi người ta cần.

Trong sinh hoạt riêng tư, giáo sư Trung vẫn không ngừng đam mê viết và nghiên cứu. Khối lương công trình nghiên cứu của ông thời kì sau 1975 cũng phong phú không kém thời trước 1975, mặc dù gặp muôn vàn khó khăn.
Điểm nổi bật từ các công trình nghiên cứu thời gian sau 1975 là ông có thay đổi quan điểm trước một số đề tài. Ông trở nên khoan dung hơn đối với những nhân vật mà trước kia ông phê phán rất nghiêm khắc (như trường hợp Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Nhu…) Một nét khác nữa, là ông có nhiều điều kiện thời gian và phương tiện để tìm “về nguồn”. Ông say mê khai quật lại những kho tàng văn hoá dân gian và truyền thống mà trước kia con người trí thức tây học cấp tiến và theo chủ trương hiện đại trong ông chưa từng tìm hiểu nhiều. Một số công trình về luận lí dân gian trong kho tàng câu đố, về nghệ thuật ẩm thực truyền thống, về Lục châu học, và một đề án nghiên cứu liên văn bản… là những thành tựu đáng chú ý. Chính trong thời gian về nguồn này, giáo sư Trung đã phát hiện một số điều rất quan trọng có ý nghĩa đảo lộn những điều trước nay thường được học giới chấp nhận như là đương nhiên. Có thể nói, Gs. Nguyễn Văn Trung luôn luôn là một người khám phá những điều mới lạ trên hành trình trí thức của mình.
Phần lớn những công trình nghiên cứu của ông sau 1975 đều còn ở dạng bản thảo. Hẳn nhiên là trong thời gian biên soạn, ông từng có chia sẻ thành tựu nghiên cứu với đồng nghiệp trong môi trường nghiên cứu và giảng dạy đại học ở trong và ngoài nước. Nhờ thế mà một số luận điểm nghiên cứu của giáo sư Trung đã được công chúng nghiên cứu biết đến, mặc dù không thật đầy đủ.
Để giúp bảo tồn và phổ biến những công trình văn hoá như công trình Hồ sơ về Lục Châu Học mà ông đã cơ bản biên soạn xong từ năm 1986, được sự đồng ý của giáo sư Nguyễn Văn Trung, Thông Luận hân hạnh chuyển đến bạn đọc khắp nơi công trình văn hoá học đồ sộ của ông, và mong được những nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm và tìm tòi thêm về Lục Châu Học này.
Ghi chú về việc biên tập: Chúng tôi hiện có trong tay bốn bản thảo Lục Châu Học: một bản thảo đánh máy có nét chữ viết tay tác giả sửa, thêm, bớt, ngoài lề trang giấy khi đọc lại bản thảo đánh máy, và ba bản gõ trên computer. Xét ra thì các bản gõ trên computer chỉ là các dị bản từ một bản gốc, vì có cùng một số những sai sót giống nhau. Chúng tôi dùng bản thảo đánh máy làm bản khung để đối chiếu và hiệu đính những chỗ đánh máy sai, và kiểm chứng văn liệu trong trường hợp cần thiết. Công việc này là rất cần thiết, vì bản thảo được đánh máy do những người không chuyên trong ngành nên có nhiều sai sót không đáng có.
Chúng tôi cũng sử dụng một bản in ronéo tập Truyện ngắn sớm hơn cả viết theo lối tây phương: Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (Sài Gòn, 1987) trong khi hiệu đính văn bản lần này. Theo tác giả thì tập này là một phần của bản thảo Lục Châu Học, nhưng tập bản thảo chúng tôi có không thấy phần này.

                                                                             Phạm Đỉnh

Tuesday 4 May 2021

                          Ngày 30 Tháng Tư: nhìn về tương lai

Đoàn Xuân Kiên





 Ngày 30 Tháng Tư năm nay đã là dịp cho nhiều tiếng nói công dân về một đòi hỏi cấp thiết là: nhìn lại di sản của nó trong đời sống Việt Nam hôm nay để có thể nhìn ra con đường hướng về tương lai tốt đẹp. 46 năm là một thời gian đủ dài cho một đầu tư tương lai thoả đáng cho cả cộng đồng dân tộc. Thực tế trên đất nước ta 46 năm qua không phản ánh một cuộc đầu tư tương lai như mong muốn của cả nước thống nhất. Sở dĩ như vậy là vì vẫn còn một cuộc chiến khác trong lòng dân tộc chưa thấy hồi kết.

Trong suốt 46 năm qua, chưa hề thấy đảng cầm quyền, giới trí thức cung đình và những trí thức phản biện trong nước có một nỗ lực nghiêm túc nào để nhìn lại bản chất cuộc chiến tranh mà miền Bắc đã ra công tô chuốt những hào quang cho nó. Có lẽ, trong một phút giận dữ lắm, vào năm 1979, chỉ có ông Tổng bí thứ đảng CSVN Lê Duẩn đã buột miệng buông ra lời nói thật về cuộc chiến "thần thánh" mới kết thúc trước đó 4 năm, rằng chúng ta đã đánh đế quốc Mỹ thay cho Liên Xô và Trung Quốc. Một phát ngôn bất ngờ đó đã nói lên khá mộc mạc mà chính xác bản chất cuộc chiến mà ông xưng tụng là chiến thắng thần kì của dân tộc. Có nhận ra bản chất cuộc chiến Nam-Bắc khốc liệt vừa qua mới có thể chọn lựa một thái độ đúng. Điều này chưa xảy ra, cho mãi đến hôm nay, sau 46 năm.

Cho đến thời điểm hiện nay, ngày 30 Tháng Tư vẫn được mặc nhiên ca ngợi là ngày giải phóng, ngày thống nhất đất nước. Đảng CSVN đã đồng hoá mình và nửa nước phía bắc là lực lượng dân tộc Việt Nam chiến thắng đế quốc Mĩ. Lối nhìn thiển cận và ngạo mạn ấy đã dẫn theo khối trí thức cung đình hết lời xưng tụng kẻ chiến thắng và vùi dập nửa nước phía Nam xuống hàng ngũ Nguỵ: nguỵ quân , nguỵ quyền.

Sau ngày thống nhất đất nước, đảng cầm quyền đã tự xem mình là đảng lãnh đạo duy nhất của đất nước. Mười năm đầu sau ngày thống nhất, đảng và nhà nước đã đề ra những chính sách xã hội dựa trên đường lối đấu tranh giai cấp, nêu cao chủ nghĩa thù hận đối với nửa nước phía Nam. Các mặt sinh hoạt xã hội đều dựa trên cơ sở hãnh tiến và kì thị. Quân nhân công chức chế độ VNCH bị lùa vào trại cải tạo. Nhà văn nhà báo, nghệ sĩ miền Nam bị bách hại bằng những đợt truy quét. Một nửa nước bị đày ải xuống thành phần công dân hạng hai. Một chiến dịch dài hạn và rộng khắp được tung ra để lăng mạ những thành tựu củachế độ Việt Nam Cộng Hoà, bao gồm toàn bộ văn hoá giáo dục của miền Nam.

Đến nay, đã dứt cuộc chiến tranh Nam-Bắc gần nửa thế kỉ, một thời gian quá dài đủ để hàn gắn lại vết thương dân tộc qua cuộc tương tàn được phủ thêm lớp sơn hận thù giai cấp, hận thù vì những chủ nghĩa ngoại lai. Việc cần thiết hiện nay của cộng đồng dân tộc chính là: nhìn lại anh em, nhận lại bạn bè. Nói khác đi, đất nước ta bây giờ cần một nỗ lực hoà giải-hoà hợp dân tộc thật sự vốn đã bị trễ nải quá lâu. Trong thời gian qua, đã có nhiều tiếng nói đòi hỏi một thay đổi về mặt chính sách nhà nước đối với vấn đề hoà giải và hoà hợp dân tộc, một vấn đề cấp thiết và đúng đắn để có thể tạo sức mạnh đoàn kết dân tộc trên đường tương lai.

Điều đáng nói ngay ở đây là: cho đến nay, nhà nước Việt Nam đã hiểu sai ý nghĩa của hoà giải-hoà hợp dân tộc, và do vậy chưa hề có hoà giải-hoà hợp dân tộc thực sự ở cấp nhà nước.

Hoà giải-hoà hợp dân tộc không phải là đảng cầm quyền tự hoà hợp giới hạn giữa một số thành phần nào đó trong cộng đồng dân tộc như việc làm của nhà nước trong bao lâu nay. Đó là thái độ phủ dụ chiêu an để làm màu mè trình diễn.

Hoà giải-hoà hợp dân tộc cũng chẳng phải là quay lưng lại nỗi đau của cộng đồng dân tộc, hay là để mặc thời gian làm phai nhoà nỗi đau của đất nước. Sau 46 năm, thế hệ những người trực tiếp tham dự chiến tranh Nam Bắc đã nhiều người ra đi. Tuy vậy, sẽ là một sai lầm tiếp nối nếu cho rằng thái độ thù nghịch của đảng CS  và nhà nước hiện nay có thể sẽ được thời gian bôi xoá, phai nhạt đi. Những người thân của một nửa nước phía Nam có thể đã và sẽ ra đi, nhưng nỗi đau của kì thị Nam-Bắc vẫn còn đó, và nó đang thể hiện trên thực tế xã hội hằng ngày qua những lối ứng xử đáng ngại: thái độ thờ ơ, bàng quan về những vấn đề xã hội, và sự phản kháng tiêu cực khác, chẳng hạn, qua việc làm sống lại cái gọi là "nhạc vàng", "nhạc sến"  hay "nhạc boléro" khắp hang cùng ngõ hẻm hiện nay. Sức sống của dân tộc sẽ không thể phục hưng được từ thái độ phản kháng tiêu cực vẫn âm ỉ trong bao nhiêu năm qua và cũng chưa có dấu hiệu nào tàn lụi.

Hoà giải-hoà hợp thực sự phải là một hoạt động cấp nhà nước, và đều khắp mọi mặt sinh hoạt quốc gia. Hoà giải-hoà hợp dân tộc phải được bắt đầu bằng việc phục hồi danh dự cho tất cả những công dân hai miền Nam Bắc đã hi sinh vì cuộc chiến tương tàn. Hoà giải-hoà hợp dân tộc cần thể hiện qua chính sách phục hồi danh dự cho các công dân miền Nam bị đối xử tàn ác sau khi hoà bình lập lại. Hoà giải-hoà hợp dân tộc phải thể hiện qua giáo dục nhà trường bằng việc duyệt lại quan điểm giáo dục, xét lại nội dung nặng thù hận chủ nghĩa và giai cấp đã truyền đạt trong sách giáo khoa. Hoà giải-hoà hợp dân tộc cần thể hiện trong hoạt động văn hoá nghệ thuật bằng việc phục hồi danh dự cho văn hoá văn nghệ "phi vô sản".Hoà giải-hoà hợp dân tộc cần thể hiện qua việc khởi động các choạt động nghiên cứu học thuật thực sự tôn trọng tinh thần khoa học chứ không thể làm công cụ cho thế lực chính trị đương quyền... 

Hoà giải-hoà hợp dân tộc không hề là một hoạt động cho phải đạo, mà phải là một hoạt động đặt mục tiêu tối thượng là đoàn kết dân tộc. Có thế thì sức mạnh của cộng đồng dân tộc mới được củng cố và phát huy trong công cuộc kiến thiết và bảo vệ đất nước trong tương lai. Không thể có hoà giải-hoà hợp dân tộc bằng thái độ độc quyền, mà cần có sự tham gia góp phần của mọi thành phần công dân Viẹt Nam.

Có như thế thì ngày 30 Tháng Tư năm 1975 sẽ xứng đáng là một ngày lễ lớn của một Việt Nam mai sau, ngày của hoà giải-hoà hợp, của đoàn kết dân tộc.

                                                                                                         Đoàn Xuân Kiên


 

 

  Phan Châu Trinh - ánh đuốc duy tân xuyên thế kỷ Đoàn Xuân Kiên Những năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về...