PHAN KHÔI NGHIÊN CỨU TIẾNG VIỆT
Đoàn
Xuân Kiên
Cũng là một tấm lòng son, gửi lại...
Phan
Khôi là một nhân vật đặc biệt trong làng văn làng báo Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Ông xuất thân là nhà nho nhưng lại sớm có tư tưởng cấp tiến và được hấp thụ tư
tưởng vì nghĩa cả. Cuộc đời hoạt động của ông là đời sống của một con người tự
do và chính trực. Vì thế mà sau khi những hoạt động chính trị-xã hội bị trở
ngại, mặc dù tinh thông hán học và tiếng Pháp, Phan Khôi không đi vào con đường
cầu an của tầng lớp thư lại. Ông bước vào làng báo non trẻ của nước nhà. Sống
với nghề báo, Phan Khôi được thuỷ chung với tư tưởng tự do cấp tiến của mình.
Phan Khôi không ưa sự phù hoa trong văn chương. Đó là Phan Khôi của mục “Vai
ngự sử trên văn đàn” (trên báo Phụ Nữ Tân
Văn năm 1931) để nhặt ra những sai lầm trong thơ văn hay trong các bài báo
thời bấy giờ. Tỉ mỉ chuyện dọn vườn văn hẳn là cái duyên dẫn đưa Phan Khôi đến
việc nghiên cứu ngữ học về sau này. Một cái duyên khác có lẽ là khi ông giới
thiệu bài viết ngắn của Nguyễn Đình về ‘luật hỏi ngã’ trên báo Tao Đàn (số 8, th.6.1939) mà ông cho là
“có giá trị về khoa học”. Cho nên sẽ là chuyện hợp lẽ mà thôi khi Phan Khôi
bước vào nghiên cứu ngữ học Việt Nam, một ngành nghiên cứu mà những người ở
ngoài nghề vẫn chê là vừa khô, vừa khó, và vừa khổ.
Quyển
sách mỏng Việt Ngữ Nghiên Cứu của
Phan Khôi do nhà Văn Nghệ xuất bản tại Hà Nội năm 1955, là một tập hợp những
bài nghiên cứu tiếng Việt mà Phan Khôi biên soạn trong khoảng thời gian ba năm,
từ 1948 đến 1950. Sách đã in ty-pô một lần trong chiến khu năm 1950 với tựa đề Tìm tòi trong tiếng Việt. Mặc dù sau đó,
ông không còn làm việc trong ngành ngôn ngữ nữa nên việc nghiên cứu bị bỏ dở,
tác giả cũng xem xét lại một số luận điểm và viết những lời bổ di ở cuối mỗi
bài, để sang năm 1955 in lại thành sách. Không lâu sau đó là biến cố Nhân
Văn-Giai Phẩm. Trong một xã hội còn nặng thành kiến về “chính” và “nguỵ” như xã
hội Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX, không lạ gì Phan Khôi và sự nghiệp của ông bị
vùi dập, bị buộc phải đẩy vào quên lãng. Hầu như trong hơn ba thập niên sau khi
ông bị nạn, không mấy ai sau này dám nhắc đến quyển sách tiền phong trong sự
nghiệp nghiên cứu ngữ học của thời kì nước nhà mới độc lập.
Thật
ra thì đây chưa phải là một quyển sách có mạch lạc, mà chỉ là tập hợp một số
bài nghiên cứu rời về một số vấn đề ngữ pháp tiếng Việt. Chủ ý của tác giả là
để khởi công phân tích một số vấn đề ngữ pháp tiếng Việt trước khi thật sự biên
soạn một tập sách hoàn chỉnh về nó (Lời tựa, tr. 6). Dưới đây là tóm lược toàn
bộ 12 đề tài mà ông đã hoàn tất trong thời gian ngắn đó:
1 Phân tích vần quốc ngữ:
tác giả xem xét lại cách kết hợp các âm và giọng để thành một tiếng, cho nên
ông duyệt lại các nguyên âm, các phụ âm, các thanh, tính hệ thống của các phụ
âm cuối và các lối hợp vận trong tiếng Việt. Những khái niệm về âm giai, âm hệ
trong vần quốc ngữ là những khái niệm ông mượn từ sách nghiên cứu hán ngữ đương
thời, nặng về phân tích âm vận học của luật thơ hơn là phân tích ngữ âm và ngữ
pháp. Ông cũng nhầm lẫn khái niệm về âm vị và chữ viết khi ông gọi các đồ vị ch, gi, ngh chẳng hạn là phụ
âm đôi, phụ âm ba.
2 Một vài nhận xét trong tiếng
ta theo chữ nôm: đây là một thành quả tiên phong của việc nghiên cứu chữ
nôm trong mối quan hệ với ngữ âm tiếng Việt thời cổ. Tác giả phân tích mối
tương quan giữa các âm /d/ trong tiếng Việt và âm /đ/ trong tiếng Hán: da (thịt) < bộ nhục bàng chữ đa , dạy
(bảo) < bộ khẩu bàng chữ đại...;
âm /gi/ trong tiếng Việt và âm /k/ trong tiếng hán: kiang >giang, kả > giả, ka > gia...; âm /tr/ trong tiếng Việt và âm
/l/ trong tiếng hán: lô > tro, lăng
> trăng, lại > trái; âm /gi/
trong tiếng Việt và âm /tr/ trong tiếng hán việt: trọng >giọng, trận >giận...Tác giả nêu lên một số giả thuyết về ngữ âm học lịch sử căn
cứ trên tự dạng chữ nôm. Đấy là một bước tiến mới mẻ ở nơi một nhà nho như ông.
3 Tiếng
đệm: bài này tìm hiểu hệ thống các từ phức trong tiếng Việt, gồm các từ láy
(thẹn thò, bệu bạo...), từ kép (đất đai,
làng mạc, tre pheo, vắng tanh, lạnh ngắt...). Cũng theo quy cách đi tìm
những quy luật của hiện tượng ngôn ngữ này, ông cố đưa ra những khuôn âm thường
đi với nhau trong các từ thuộc loại này, chủ yếu là các từ láy.
4
Con, cây, cục, cái: tác giả theo phép thực nghiệm
quy nạp mà tìm hiểu tính cách và vai trò của bốn từ này, và ông cho là chúng
đều là những tiền danh tự chứ không hẳn là mạo tự, quán tứ hay loại tự như
trước đó thường gọi.
5
Tiền danh tự và mạo tự: bài này là bước nối tiếp
của bài trên, nhắm mở rộng việc tìm hiểu vai trò của các tiếng mà tác giả gọi
là tiền danh tự. Ông rút ra được kết luận là các tiền danh tự có công dụng cá
biệt hoá tính chất của danh từ đi sau nó.
6
Thời gian và không gian trong ngữ pháp: bàn về tính
cách của tiếng Việt khi biểu diễn khái niệm về thời gian và không gian, qua đó
phản bác quan niệm của Trần Trọng Kim khi bàn về loại phó từ chỉ thời gian và
vị trí mà tác giả cho là không sát hợp với tính cách của tiếng Việt.
7
Trên, dưới, trong, ngoài, lên, xuống, vào, ra: bàn
về các từ chỉ vị trí và phương hướng trong tiếng Việt, nhưng ông không chỉ dừng
lại ở công dụng ngữ pháp của chúng mà lại xem xét chúng ở mặt luận lí hay ngữ
nghĩa.
8
Kiểm thảo về đại danh từ: tác giả biện bác về các
lối dùng đại danh từ trong tiếng Việt. Phần lớn những biện bác này cũng chỉ ở
trên bình diện luận lí hơn là ngữ pháp.
9
Mấy đặc điểm trong tiếng Việt: đưa ra ba đặc điểm
của tiếng Việt; nói theo trật tự thời gian, theo yêu ghét chủ quan, và thường
có chủ từ tổng hợp.
10
Hư tự trong truyện Kiều: bàn về một loại từ đặc
biệt trong tiếng Việt qua một tác phẩm truyện Kiều, vì ông cho rằng Nguyễn Du
dùng tiếng Việt chính xác lắm. Các từ đâu,
bao, bấy, dầu, dẫu, mặc
dầu được đưa ra làm điển hình để ông rút ra những quy cách sử dụng loại phó
từ này trong ngữ pháp tiếng Việt.
11
Đề nghị về danh từ ngữ pháp: đưa ra một số đề nghị
dùng các thuật ngữ ngữ học Việt Nam cho phù hợp với tính cách của bộ môn nghiên
cứu và của bản thân tiếng Việt: những thuật ngữ nay đã quen dùng thì đã được
đưa ra từ sách của Phan Khôi; ngữ pháp thay cho ‘văn pháp’, ‘văn phạm’,’mẹo’,
từ thay cho ‘tự’, phó từ thay cho ‘trạng từ’, hình dung từ thay cho tĩnh từ,
ngữ ngôn để chỉ khái niệm tiếng nói như một đặc tính của loài người, và ngôn
ngữ để chỉ một tiếng nói cụ thể.
12
Phụ lục: Một
phương pháp dạy văn pháp tiếng ta: đưa ra một lối phân tích cú pháp theo
phương pháp đồ giải mà tác giả đề nghị từ năm 1948. Đây chính là một nỗ lực
phân tích cấu trúc câu theo đúng tinh thần tiếng Việt mà không bị ảnh hưởng của
ngữ pháp tây phương. Phương pháp của Phan Khôi là dùng đồ hoạ để chia câu nói
ra thành từng tầng bậc chính phụ, làm nổi rõ ngữ nghĩa qua cấu trúc câu.
Tính
đến thời điểm 1948-1950, khi sách được biên soạn, việc nghiên cứu tiếng Việt
mới chỉ ở bước sơ khai. Tình hình nghiên cứu tiếng Việt ở đầu thế kỉ XX hãy còn
thưa thớt, số người nghiên cứu đếm trên đầu ngón tay. Kể về công trình về ngữ
pháp tiếng Việt thì mới chỉ có một bộ sách Việt
Nam Văn Phạm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ và Phạm Duy Khiêm là được phổ
thông, nhờ được dùng trong nhà trường (1). Trong hoàn cảnh như thế, Phan Khôi không
tham khảo được gì nhiều trong khi nghiên cứu. Đấy là chưa nói đến một yếu tố
khác cũng cần để ý, là điều kiện sách vở của những người kháng chiến như Phan
Khôi hẳn cũng thiếu thốn mọi bề. Những yếu tố này sẽ khiến cho công trình
nghiên cứu của Phan Khôi nhiều chất khám phá dựa trên trực giác và suy luận
nhiều hơn là tham khảo tư liệu. Nói thế không phải là bảo những phát kiến của
Phan Khôi trên đường tìm tòi là hoàn toàn bắt được từ thinh không. Chúng ta có
thể thấy thấp thoáng trong mấy trang sách dấu vết của những ‘cọ sát tư duy’
giữa tác giả và các đồng nghiệp cùng ngành nghề, hoặc giả một vài quyển sách
hiếm hoi của giới nghiên cứu Trung quốc buổi ấy, và nhất là quyển sách của Trần
Trọng Kim. Giá trị đầu tiên của quyển sách mỏng này nằm ở điểm: đó là kết quả
của công phu lập luận, của trực giác khoa học là chính. Điều này cũng khá phù
hợp với tính cách của Phan Khôi -một người đặt nặng tinh thần luận lí, tinh
thần độc lập tư tưởng, không bị trói buộc trong những câu thúc của xã hội.
Trước
Phan Khôi, bộ môn nghiên cứu tiếng Việt chưa làm sáng được tính cách hệ thống
của tiếng Việt theo nghĩa là những quy tắc ngữ pháp của chính nó, mà không phải
là do sự áp đặt phương pháp mô tả tiếng Việt theo mô hình của tiếng Pháp, như
trong công trình của những tác giả người Pháp trước kia hay như Trần Trọng Kim
khi viết Việt Nam Văn Phạm. Phan Khôi
đã phê phán Trần Trọng Kim rải rác trong suốt quyển sách chính là phê phán lối
nhìn tiếng Việt qua đôi kính phân tích ngữ pháp tây phương cổ điển. Để có thể
mô tả tiếng Việt, việc cần làm là hãy quan sát nó, vận dụng những thao tác ngôn
ngữ để nhận ra những quy luật của tự thân nó; nói cách khác, hãy tìm đến tiếng
Việt như một đối tượng mới gặp lần đầu.
Phan
Khôi đã dùng những thao tác như thế trong các bài viết mà rút ra được một số
kết luận mới mẻ ở thời kì đó. Phân tích ngữ pháp cũng như bao nhiêu việc biên
tập khác trước kia, ông rất sùng tín vào luận lí. Theo đúng phép hoài nghi khoa
học, nhiều khi Phan Khôi đã bắt đầu từ chỗ bắt đầu: ông không bị vướng mắc vào
những quan niệm sẵn có, mà muốn tìm đến đối tượng nghiên cứu với thái độ tỉnh
táo, khách quan. Hãy lấy bài thứ tư làm một minh hoạ điển hình: trước tiên, ông
quan sát cách dùng của bốn từ cây, con, cục, cái trong lời nói để nhận ra những
sắc thái riêng của bốn từ này là những tiếng đặt trước danh từ chỉ sự vật theo
từng hạng loại (tr.72); sau đó ông khái quát hoá một bậc mà nhận ra tính cách
chung của cái và con là để chỉ định tình trạng chứ không phải để phân biệt
giống (tr. 75); cuối cùng ông nhận thấy cái còn có những sắc thái rất riêng
khác (tr.75-76). Đến cuối bài ông đề nghị một cách gọi tên các từ này là ‘tiền
danh từ’ dựa trên những tính cách chung và riêng của chúng. Lập luận suy diễn
và quy nạp đều khúc chiết, sáng sủa, và rất thuyết phục, ‘rất Phan Khôi’. Cùng
lối tiếp cận như thế, tác giả xem lại từ loại gọi là đại danh từ (bài 8), hoặc
những hư tự trong truyện Kiều (bài 10).
Có
khi óc duy lí đưa lập luận của tác giả đến chỗ nghiêm khắc quá đáng mà thành
khiên cưỡng. Ông bắt bẻ chúng ta nói ‘ngồi dưới đất’ là không trúng cách mà
phải nói là ‘ngồi trên đất’ (tr. 101) hoặc như không nên nói ‘xuống thuyền’ mà
phải ‘lên thuyền’ (tr.104), hoặc nữa là khi ông đặt vấn đề tiếng Việt không có
đại từ trung tính như nễ và ngã hay I và You là những quá đà của óc duy lí. Ấy
vậy mà đôi lúc sự quá khích của Phan Khôi lại có những nét đáng mến, vì nó thể
hiện một phong cách, một cá tính con người. Hãy đọc lại một đoạn trang viết về
đại từ xưng hô cụ lớn để thấy lại khẩu khí con người chính trực đến nghiêm khắc
của Phan Khôi (2). Những nhận xét sắc bén của tác giả về đại danh từ hẳn nhiên
là đã đi quá phạm vi ngữ pháp, nhưng bù lại nó cũng phản ánh con người Phan
Khôi.
Phan
Khôi cũng là một trong số những người đầu tiên tìm hiểu chữ nôm như là một hệ
thống đồ vị để qua đó tìm ra ra mối tương quan giữa chữ viết và lối phát âm.
Khi tìm hiểu về chữ nôm, Phan Khôi tiến xa hơn các tác giả Việt Nam trước ông
cũng đã từng tìm hiểu về chữ nôm. Qua một số những hiện tượng trùng lắp, ông
nhận ra mối quan hệ giữa chữ nôm và lối phát âm cuả người xưa. Từ đó ông nêu ra
một số nhận xét về nguyên tắc chính tả chữ nôm. Những kết luận của tác giả về
mối quan hệ giữa cách phát âm tiếng hán và tiếng Việt, giữa chữ nôm và lối phát
âm tiếng Việt, là những ý kiến xác đáng của một người uyên bác về hán-nôm. Cũng
nhân khi tìm hiểu về chữ nôm, Phan Khôi nhìn ra được giá trị của việc nghiên
cứu ngữ âm học lịch sử (mà ông gọi là “cổ âm học”), và “mong người khác thấy sự
ích lợi lớn của nó mà dựng ra nhiều lối khác nữa để nước Việt Nam cũng có một ngành
cổ âm học của mình thì sẽ có ích lợi cho ngôn ngữ văn tự, cho học giới tương
lai nhiều lắm” (tr. 39). Tiếp nối những
gợi ý như thế, giới nghiên cứu hán-nôm về sau đã đi xa hơn: đã có những công
trình quan trọng về ngữ âm lịch sử tiếng
Việt (Nguyễn Tài Cẩn, Lê Văn Quán...). Nhưng không vì thế mà giá trị những gợi
ý của Phan Khôi và những người ở thế hệ ông bị suy giảm.
Một
đóng góp khá quan trọng của quyển sách là nó gợi ra những câu hỏi lớn về những
hiện tượng ngôn ngữ quen thuộc của chúng ta, nhưng cho đến thời Phan Khôi
nghiên cứu vẫn chưa có những lời giải nào. Những từ mà ông gọi là “tiếng đệm”
chưa được nghiên cứu thấu đáo. Trần Trọng Kim xếp chúng vào từ loại ‘tĩnh từ’,
và có xem xét cách cấu thành một tiếng ‘tĩnh từ ghép’ bằng lối dùng những thể
cách biến thanh và biến âm của tiếng đệm đi kèm với ‘tĩnh từ’ đơn. Phan Khôi đã
mở rộng thêm hướng nghiên cứu khi ông cho rằng loại ‘tiếng đệm’ này không chỉ
là loại ‘tĩnh từ’ mà có thể là danh từ, động từ. Về cách cấu tạo, Phan Khôi
cũng đi tiến thêm xa khi ông chỉ ra những mô hình biến âm và biến thanh có tính
toàn diện hơn. Loại tiếng này về sau sẽ gọi là “từ láy”, cũng sẽ được nghiên
cứu kĩ hơn, nhưng về đại thể thì những mô hình nêu ra từ sách Phan Khôi đã
không thay đổi nhiều. Có khác chăng chỉ là vấn đề định danh mà thôi. Trong
sách, ông dùng lại tên gọi ‘tiếng đệm’ trong sách Trần Trọng Kim, nhưng ông đặt
chúng vào một phạm trù ngữ pháp rộng hơn có tên gọi là “thành từ” để chỉ chung
loại từ ghép có cấu trúc chặt chẽ, chẳng hạn:’non sông’, ‘làng mạc’,’đất
đai’,’chơi bời’,’‘chễm chệ’... Đây là một khái niệm mới, có giá trị khoa học,
và sẽ làm cơ sở cho một hướng tìm tòi lâu dài về sau.
Những
ý kiến của Phan Khôi về tiền danh từ (bài 5), phó từ thời gian và không gian
(bài 6), các loại phó từ chỉ phương hướng (bài 7), đại từ (bài 8) duyệt lại một
cách triệt để những khái niệm mà trước đây các sách ngữ pháp theo phương pháp
tây phương đã không nêu ra được các sắc thái riêng của tiếng Việt. Đây là những
phê phán gián tiếp quan điểm Trần Trọng Kim thuở ấy đang là quan điểm ‘chính
thống’ trong học giới. Những đóng góp của thế hệ sau về ngữ học Việt Nam đã
giải quyết rốt ráo những nhược điểm nghiêm trọng của quan điểm Trần Trọng Kim,
và đã chứng nhận tính cách xác đáng của những luận điểm đề ra trong sách Phan
Khôi. Hẳn nhiên là những vấn đề trên đây đã chưa có thể nào giải quyết trọn vẹn
trong mấy bài ngắn ngủi mà chính Phan Khôi lúc đó cũng chỉ xem là những tìm
tòi, gợi ý cho một công trình dài lâu.
Bài
tìm hiểu về cách dùng hư tự trong truyện Kiều là một bài đặc sắc. Trước hết là
ở việc tác giả bàn một vấn đề ngữ pháp dân tộc biểu hiện qua ngôn ngữ của một
nhà văn. Đấy là hướng nghiên cứu mới mẻ mà không mấy ai quan tâm vào thời ấy.
Tác giả tìm hiểu ý nghĩa ngữ pháp của
một số trợ từ mà ông mượn thuật ngữ của
giới nghiên cứu hán ngữ, là hư tự ‘bao’, ‘bây’, ‘bấy’, ‘đâu’,’dầu’,’dẫu’, ‘mặc
dầu’. Để nêu lên được ý nghĩa khái quát của các trợ từ này, ông cũng đi từ việc
tập hợp các câu Kiều có dùng các hư tự này và làm những thao tác phức tạp cần
thiết của một phân tích thực nghiệm. Những kết luận rút ra trong bài là những
kết quả như thế. Tác giả làm việc tỉ mỉ, nhưng không sa xuống tủn mủn, ông đã
“thâm nhập nhi thiển xuất”, là một trong những điều kiện cơ bản của nghiên cứu
khoa học. Được như thế phải nói là nhờ vốn học thâm thuý và tinh thần tìm tòi
cái mới nơi ông. Đọc ông có cái thú vị của những khám phá chứ không phải là
những kiến thức lặp lại đâu đó. Mà những thú vị thì có thể nhặt ra từ một kết
luận lớn (như ý nghĩa ngữ pháp của hư tự đâu
trong truyện Kiều, chẳng hạn), hay từ một khám phá nho nhỏ ở bên lề cuộc tìm
kiếm (chẳng hạn, ông nhận thấy truyện Kiều từ đầu đến cuối không hề dùng trợ từ
nếu).
Cuốn
sách nhỏ của Phan Khôi còn đưa ra việc định lại thuật ngữ ngữ học Việt Nam , từ những
khái niệm cơ bản của ngôn ngữ (từ)
đến những thuật ngữ ngữ pháp trên cơ sở xác lập các từ loại của tiếng Việt.
Những ý kiến của ông lúc bấy giờ là một sự lay động lớn cho một cuộc lên đường
mới mẻ. Thuật ngữ “ngữ pháp” không chỉ đơn thuần là một cái tên gọi cho khác người,
mà chính là một thuật ngữ chuyên chở một nội dung rất khác. Phan Khôi xem “ngữ
pháp” là việc tìm hiểu ngôn ngữ sống do con người dùng hằng ngày. Ông cũng nói
thêm là tiếng Việt không phân biệt ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết như trường hợp
hán ngữ chẳng hạn, phân biệt văn ngôn và bạch thoại. Vì thế,“...ngữ pháp tức là văn pháp, phép tắc cho
sự nói tức là phép tắc cho sự viết, hễ nói đúng thì viết đúng... ngữ bao hàm được văn chứ văn không bao hàm
được ngữ...” (tr. 145).
Một số những đề
nghị khác cũng là kết quả của những thay đổi về mặt quan điểm như thế. Đây là
trường hợp của những thuật ngữ từ, thành từ, tiền danh từ, phó từ, định từ. Có những thuật ngữ ông đề nghị
nhưng thế hệ sau không theo, nhưng không ai phủ nhận được quan điểm xác đáng
của ông khi đưa ra những thuật ngữ mới là để xây đắp một phương hướng mới cho
nghiên cứu ngữ học nước nhà ở thời đại mới. Hãy lấy khái niệm về ‘từ’ trong
sách: trước hết, đấy là một đơn vị của
ngôn ngữ. Một từ khi nói lên thành tiếng có thể đơn tiết, như chim, sạch, nhưng cũng có thể đa tiết, như chim bắt cô trói cột, sạch
sành sanh. Như vậy, ‘từ’ là một khái niệm ngữ pháp bao hàm hai mặt khác
nhau của đơn vị ngôn ngữ là tiếng (mặt âm thanh) và chữ (mặt ghi chép). Đây chỉ
là đôi thí dụ về mối tương quan giữa quan điểm nghiên cứu và thuật ngữ mà Phan
Khôi gợi ra trong khi ông nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt.
Cuối
sách là một Phụ Lục, trong đó ông đề
nghị một lối dạy ngữ pháp mới mà ông nói rõ là đã được gợi ý từ một quyển sách
ngữ pháp tiếng hán của một tác giả Trung quốc, Tân trước quốc ngữ văn pháp của Lê Cẩm Hi. Gần ba mươi trang sách
đã là một bản cương yếu quan điểm mô tả ngữ pháp tiếng Việt của Phan Khôi ở
thời điểm 1948 mà ông đã thuyết trình trước một hội nghị văn hoá năm đó. Mở
đầu, tác giả nêu rõ quan điểm mô tả ngữ pháp của ông là: “cú bản vị” (dựa trên
câu làm căn bản) và “đồ giải” (dùng đồ hình để giải thích). Đây là một bước tiến
rất lớn so với sách của Trần Trọng Kim trước kia, vốn là cú pháp “từ bản vị” -
chỉ dựa theo lối phân tích cú pháp cổ điển của Pháp mà chú trọng phân tích từ
loại. Ngữ pháp cú bản vị là hệ thống ngữ pháp lấy câu nói làm cơ sở phân tích,
bởi vì các từ kết hợp với nhau trong những kết cấu khác nhau, và ngữ pháp là
những phân tích về những cấu trúc đó. Năm 1948 ở Việt Nam chưa hề
biết đến ngữ pháp cấu trúc, nhưng quan điểm mà Phan Khôi đề nghị chính là
phương hướng phân tích ngữ pháp cấu trúc vậy. Phương pháp cấu trúc phân tích
câu theo cơ cấu kết hợp của các thành phần, cấu trúc của các tổ hợp như thế là
hệ thống những cấp bậc chính phụ khác nhau. Phan Khôi châm chước theo phương
pháp Lê Cẩm Hi của Trung quốc mà phân tích câu tiếng Việt ra thành những thành
phần sau:
(a)
thành phần chủ yếu gồm có ‘chủ ngữ’ và ‘vị ngữ’;
(b)
thành phần liên đới gồm có ‘tân ngữ’ và ‘bổ túc ngữ’;
(c)
thành phần phụ gia gồm có ‘hình dung từ phụ gia ngữ’ (gọi tắt là ‘hình phụ’) và
‘phó từ phụ gia ngữ’ (gọi tắt là ‘phó phụ’).
Mỗi
thành phần của câu sẽ được làm nên từ chín từ loại khác nhau xếp thành năm
nhóm, là:
1.
Thực thể từ: gồm ‘danh từ’, ‘đại danh từ’;
2.
Thuật thuyết từ: gồm các ‘động từ’;
3.
Khu biệt từ: gồm các ‘hình dung từ’ và ‘phó từ’;
4.
Quan hệ từ: gồm các ‘giới từ’ và ‘liên từ’;
5.
Tính thái từ: gồm các ‘trợ từ’ và ‘thán từ’.
Những thành phần
trên đây kết hợp với nhau trong một sơ đồ cấu trúc hai tầng chính phụ. Tầng
trên cho thấy mối quan hệ chủ yếu trong một câu gồm có hai thực thể từ sắm vai
trò chủ ngữ và vị ngữ.Sau vị ngữ có thể có thành phần liên đới với nó - tức là
tân ngữ. Tầng dưới của sơ đồ cú giải cho thấy những thành phần phụ gia có vai
trò làm bổ túc cho các từ hoặc nhóm từ đảm nhậm thành phần chính của câu. Phan
Khôi đã lên một sơ đồ tổng quát như sau:
Hình 1: Sơ đồ cú giải tổng quát do Phan Khôi thực hiện
Xin
mượn lại một vài ví dụ trong sách để minh hoạ cho lối phân tích cú pháp bằng đồ
hình mà Phan Khôi đề nghị. Câu sau đây: “Chim bay về núi” có thể phân tích theo
sơ đồ như sau: Thành phần có quan hệ chính yếu là “chim” (làm chủ ngữ) và “bay” (làm vị ngữ); ở mối quan hệ bậc hai thì “về núi” là phó từ.
Phan Khôi làm đồ giải câu trên như sau:
Một câu khác nữa: “Mặt trời mọc ở phương
đông” có cấu trúc như sau: danh từ “mặt trời” làm chủ ngữ, động từ “mọc”; vị
ngữ “mọc” lại có phó từ “từ phương đông” bổ nghĩa cho nó.
Một trường hợp khác là một câu phức: “Anh em thợ, đương mùa nóng nực này, ở bên cạnh lò lửa, dùng các thứ đồng, gang, sắt, đúc súng đạn cho chúng ta”. Ông phân tích theo sơ đồ như sau: ở tầng trên là thành phần chính của câu: “Anh em thợ | đúc súng đạn”; tầng dưới cho thấy các thành phần bổ túc của hai thành phần chủ ngữ và vị ngữ ở trên:
Nhìn lại giai đoạn
phát triển ngữ học Việt Nam sau Phan Khôi, chúng ta dễ dàng thấy bóng dáng
những nét chính của phương pháp này trong các sách Khảo Luận về Ngữ Pháp Việt Nam của Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến
Lê (Huế, 1963) và Nghiên Cứu về Ngữ Pháp
Tiếng Việt (hai tập) của Nguyễn Kim Thản (Hà Nội, 1963-64). Cả hai bộ sách
sau này đều tiếp nối và phát triển những tìm tòi mở lối của Phan Khôi về những
vấn đề phương pháp luận: đi tìm một hướng nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt phù
hợp với đặc tính của nó là loại ngôn ngữ đơn tiết không biến hình, và ngữ pháp
cú bản vị. Các tác giả phân biệt rạch ròi hai mặt của phân tích ngữ pháp: phân
tích ‘từ tính’và ‘từ vụ’ của các thành phần cấu tạo nên câu nói, và khi phân
tích câu thì cần phải tìm ra các thành phần chính phụ và các thành phần chỉ các
mối quan hệ trong câu nói. Các tác giả về sau cũng tiếp nối công trình đề ra từ
Phan Khôi mà hoàn chỉnh các thuật ngữ ngữ học tiếng Việt cho phù hợp. Nói thế
là thừa nhận rằng giá trị của những phát kiến trong sự nghiệp nghiên cứu khoa
học có tính cách lịch sử của nó. Đặt trong mối tương quan kế thừa và phát
triển, chúng ta mới nhìn nhận được những giá trị của những tìm tòi về tiếng
Việt của Phan Khôi -cho dẫu là bỏ dở dang như ông thú nhận.
Đã
gần nửa thế kỉ đi qua, có thể những tìm tòi của Phan Khôi ngày nay đã đi vào kỉ
niệm của lịch sử ngữ học nước nhà. Nhưng con người Phan Khôi thì vẫn hãy còn
sinh động trong những trang viết. Ngay ở lời mở đầu sách có một đoạn ngắn cho
thấy sự thành tâm của Phan Khôi đối với công phu tìm tòi nghiên cứu: “Tôi mong
rằng...sẽ được nhiều lời phê bình thảo luận, để bổ cứu cho sự sai lầm thiếu sót
của ý kiến một người, và nhờ đó công việc phân tích càng đầy đủ tinh vi hơn...
Công việc này là công việc vĩnh viễn, không phải chỉ làm mười năm hay một trăm
năm. Hễ thời đại tiến hoá thì ngữ ngôn phải tiến hoá, ngữ ngôn tiến hoá tức là
dân tộc tiến hoá.” (tr. 6) Ngày nay, những câu như thế đã thành sáo ngữ nghề
nghiệp của những kẻ ‘biên tập’ xuất bản hay của chính các tác giả. Ở vào những
năm tháng trước kia, những suy nghĩ như thế ở một người thuộc hạng ‘tiên chỉ’
trong làng chữ nghĩa là điều đáng trọng, nếu chúng ta biết là đến cuối thế kỉ
XX có kẻ nghiên cứu 'đội mũ cánh chuồn' hãy còn đem ‘nhân dân’ ra như một thứ
quyền lực để mong lấy điểm tựa bảo chứng cho cái gọi là bài nghiên cứu của họ
và cũng là để uy hiếp tinh thần những ai khác ý kiến với họ (3).
Ở một chỗ khác,
khi trả lời một nhà thơ trẻ muốn cách mạng việc gieo vần cho thơ, ông bảo rằng
“ anh cứ làm đi và đưa ra công chúng đi,
hễ công chúng nhận thì thơ anh sống, mà công chúng chối thì nó chết. Ngữ
ngôn luôn luôn biến hoá, đó là một quy
luật nhất định.” (tr. 25) Những suy nghĩ kiểu đi chệch ra khỏi nếp nghĩ quan
phương như thế này dường như hãy còn xa lạ đối với xã hội chúng ta, vì chúng bị
kết án là ngang ngạnh, vô chính phủ, như chính bản thân tác giả nó đã từng phải
chịu tiếng.
Bàng
bạc trong những trang sách là tấm lòng thành đối với sự phóng khoáng, tiến bộ,
cho nên ông không chịu được cái não trạng “người nói cứ bám khư khư lấy cái chỗ
mình ở, cứ một mực chủ quan, làm cho khẩu khí có vẻ tủn mủn và văn chương đôi
khi có vẻ câu thúc không phóng khoáng.” ( tr. 99). Xin trở lại câu chuyện cụ
lớn như một minh hoạ về con người Phan Khôi. Bình sinh ông vốn không ưa thói
bất công trong xã hội. Thái độ ấy đưa đến hệ quả tất nhiên là ông phủ nhận
tuyệt đối tư tưởng nho phong kiến, xem đó là tác nhân đưa đến hủ bại của xã hội
chúng ta ngày nay. Nhân khi bàn về
nguyên uỷ cách xưng hô bằng ‘cụ lớn’, tác giả đã xuôi dòng suy nghĩ của mình mà
bàn sang chuyện xã hội ngôn ngữ học hoặc là dân tộc tâm lí học mà buông lời
thống thiết: “Nghề thế, đã tôn bợ người khác lên càng cao thì tự mình lại hạ
xuống thấp và càng thấp. Xưng mình bằng tôi, nghĩa là tôi tớ, đã nhũn lắm và đê
tiện quá rồi còn chưa lấy làm đủ, xưng là con là cháu. Trong khi không gọi
người đẻ ra mình bằng cha mẹ, gọi bằng anh chị, cậu mợ, chú thím, mà lại xưng
con xưng cháu trước mặt những kẻ không đẻ ra mình, không đẻ ra cha mẹ mình, gẫm
mà xem, có đáng tủi thân không ?” (tr. 112). Quá quắt lắm chăng? Thiết tưởng
chủ trương ấy chỉ là hệ quả của một quan điểm xã hội cấp tiến, chủ trương xoá
bỏ chế độ gia tộc của thời phong kiến mà ông cho là đã làm cho con người Việt
Nam chúng ta bẩn chật, hèn hạ đi. “Chính bản thân cái chủ nghĩa gia tộc đã là
không tốt đẹp gì thì khi đem những tiếng xưng hô trong gia tộc áp dụng ra cả xã
hội cũng không tốt đẹp gì. Nói rằng coi hết thảy người trong nước là bà con họ
hàng với nhau, nhân đó càng thương yêu nhau, chỉ là nói thế thôi, nói nghe cho
lịch sự thế thôi.” (tr. 115-6). Lập luận của Phan Khôi nếu có phần thậm xưng
thì bù lại cũng phản ánh một bộ mặt đáng buồn của xã hội nửa phong kiến nửa nô
lệ của chúng ta thời ấy. Nhưng mà ở đây không phải là chuyện quá khích hay thậm
xưng, mà là một biểu hiệu của chút lòng “tiên ưu” của một kẻ sĩ. Thấy điều phải
mà không đủ đảm lược để nói lên thì còn đâu là sư ‘lương thiện trí thức’, cái
khí phách của kẻ sĩ nữa ?
Ở
trên đã nhắc đến tinh thần duy lí trong lập luận của tác giả. Nói thế e rằng
chưa đủ chính xác. Trong một con người Phan Khôi có hai phong cách rất khác
biệt nhau: một tâm hồn thi nhân bên cạnh một nhà lí luận. Tâm hồn thơ là gì nếu
không phải là một tâm hồn tinh tế biết cảm nhận những vẻ đẹp, vẻ sâu sắc của
đời. Nhưng Phan Khôi không ưa những thói phù hoa nhảm nhí thường thấy trong
làng văn làng báo. Thứ văn chương ‘mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây’ không phải
là thứ văn chương ông chuộng. Cũng như bao nhiêu nhà nho, ông cũng là một người
làm thơ và bình thơ thâm thuý, nhưng rồi chính ông cũng thấy thơ Việt Nam đến buổi ấy
cằn cỗi, vì vậy ông đã là người đi đầu trong việc làm mới thi ca ở đầu thế kỉ
XX. Nghĩ như thế và sống như thế, nào phải chỉ có mình ông! Cao Chu thần ngày
trước chẳng từng ngán ngẩm cho thứ ‘nhai văn nhá chữ’ trong làng văn thơ mũ
cánh chuồn đó sao!
Thuở
còn làm báo ở Nam Kì, Phan Khôi thường bị đồng nghiệp ganh ghét và bỉ báng ông
là một kẻ kiêu ngạo, tự phụ. Nhiều người muốn lên giọng đánh giá sự nghiệp Phan
Khôi, nhưng đã không hiểu được cái tâm thành của ông. Có nhà viết văn học sử sau
này lại còn tìm cách cắt nghĩa thái độ “bất mãn thường trực” của Phan Khôi theo
kiểu phân tâm học, bằng cách giải thích từ những kỉ niệm buồn đau thời tuổi trẻ
của nhà văn (4). Thiết tưởng bây giờ chúng ta không thể bằng lòng với lối phân
tâm lạ đời và nguy hiểm đó. Theo lối phán đoán chủ quan và phiến diện, làng văn
làng báo trước kia thường quên một chi tiết trong đời riêng của Phan Khôi: ông
là một người suốt đời giữ được khí tiết nhà nho cương trực, không thoả hiệp với
điều mà thời đại hôm nay gọi là “chà đạp nhân quyền”. Ông là phần tử hoạt động
hăng say trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, của phong trào duy tân
ở Quảng Nam, một nhà báo tiền phong và nổi tiếng qua phong cách bút chiến rắn
rỏi, khúc chiết mà mục tiêu của ông thường chỉ là đấu tranh cho một phong thái
tự do, bình đẳng.
Ông có kiến thức
quảng bác, lại có nhiệt tâm tìm kiếm cái đúng cái tốt, nên văn bút chiến đã là
một sở trường của ông trong sự nghiệp làm báo. Nhưng tính cách nổi bật của văn
bút chiến Phan Khôi là ở chỗ ông chuộng sự tinh xác, sự minh bạch, sự liêm khiết trí thức. Đó là Phan Khôi của
loạt bài tranh luận về Nho giáo với Trần Trọng Kim, và
của bài “Cảnh cáo những nhà học phiệt” để nhắn nhủ Phạm Quỳnh. Cho đến
cuối đời, Phan Khôi vẫn là người như thế. Bài viết “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”
là khí tiết, là tâm can của một người yêu tự do, yêu tiến bộ, và không thoả
hiệp với lề thói muốn độc quyền chân lí, nhất là chân lí dựa nhờ trên quyền uy
chính trị đảng phái. Người ta không thể kì vọng ở một người đã một đời đấu
tranh cho lẽ công bình ở đời lại phải quy phục cường quyền.
Là
đứa con tinh thần của Phan Khôi, sách Việt Ngữ
Nghiên Cứu cũng còn là bản phóng ảnh
của con người tác giả, một con người tiêu biểu của truyền thống kẻ sĩ dân tộc.
Phan Khôi là một nhà nho xuất thân nhưng lại thường xuyên đứng ở hàng ngũ những
người đấu tranh cho tiến bộ, cho cái mới. Từ phong trào duy tân với Đông Kinh
Nghĩa Thục và Trung Kì Dân Biến thất bại, ông chuyển sang hoạt động báo chí và
sớm trở thành một kiện tướng trong làng báo tiền phong. Xông xáo trong trường
văn trận bút nên Phan Khôi đã tham gia những trận bút chiến vang dội trong học
giới thuở ấy. Nhân đây tưởng cũng nên nhắc đến ‘mối duyên văn tự’ giữa Trần
Trọng Kim và Phan Khôi. Cả hai tác giả cùng thế hệ, cùng có sở học uyên bác, và
không chừng cũng liên tài ái tài nhau mà dẫn đến mấy trận tranh luận hiếm có
trong học giới chúng ta trước nay.
Trong bao điều tốt
đẹp mà ông đã cống hiến cho làng văn làng báo từ những năm tháng xa xưa, lòng
trân trọng của ông đối với quốc văn là một điểm không ai biết ông mà không
thấy. Khi bắt tay tìm hiểu về phép làm văn quốc ngữ là ông không ngừng xây đắp
tinh thần Việt Nam
trong khi xem xét tiếng Việt. Từ những năm xưa, trên báo Phụ Nữ Tân Văn (1931), Phan Khôi giữ mục “Ngự sử trên văn đàn” và
đã gây ảnh hưởng lớn trong công chúng, khiến họ phải thận trọng hơn đến chính
tả quốc ngữ. Trước đó, Phan Khôi đã mở mục “Phép Làm Văn” để dạy thế hệ trẻ
viết quốc văn, nhân đó ông dò dẫm phát kiến -trước Trần trọng Kim- những quy
tắc của ngữ pháp tiếng Việt. Từ năm
1930, khi viết những bài phê bình sách Nho giáo đến năm 1948, khi phê bình
phương pháp mô tả ngữ pháp tiếng Việt trong Việt
Nam Văn Phạm, thái độ và phong cách của Phan Khôi vẫn là thái độ của một
chính nhân “phù thế giáo một vài câu thanh nghị” mà thôi.
Nhìn
lại công trình nhỏ bé của Phan Khôi ngày hôm nay chính là để đặt lại chỗ đứng
của ông trong sự nghiệp chung. Việt Ngữ
Nghiên Cứu, mặc dù là một phác thảo dở dang về ngữ pháp tiếng Việt, sẽ vẫn
là bằng chứng của một công phu trí tuệ sắc bén và cấp tiến. Quyển sách khiêm
tốn của Phan Khôi đã đánh dấu cho một bước biến chuyển của nghiên cứu ngữ học
Việt Nam
ở buổi đầu. Ngày nay, nhìn lại quyển sách để thấy lại những bước tiến trên
đường tìm kiếm mà lúc đó, trong hoàn cảnh khó khăn, Phan Khôi đã làm được một
số việc mở đường quan trọng. Tính đến nay đã gần tròn nửa thế kỉ, ngữ học Việt Nam đã tiến một
bước dài, nhưng chúng ta không thể và không được phép quên rằng Phan Khôi đã là
người thuộc thế hệ đặt nền móng cho những thành tựu về sau. Chế độ chính trị
độc đoán có thể vùi dập ông, nhưng người trí thức không có quyền bội bạc với
những công trình của người đi trước, vì kiến thức chúng ta đây là kết quả của
kế thừa và phát triển mà thôi.
Đoàn Xuân Kiên
Tập san Hợp Lưu, số 33 (th.2 & 3, 1997), tr. 53-65
(1) Trong khoảng nửa đầu thế kỉ XX, có những công
trình ngữ học sau đây do các nhà nghiên cứu phương tây thực hiện: A. Chéon với
công trình Notes sur les dialectes Nguồn, Sắc, Mường (1905),
L. Cadière với công trình: Le dialecte du Bas-Annam. Équisse phonétique (1911),
H. Maspéro để lại một công trình lớn: Études sur la phonétique
historique de la langue annamite(1912). Các tác giả Việt Nam thì -theo chỗ
chúng tôi hiểu- mới chỉ có Nguyễn Đình với “Luật hỏi ngã” (1938), Trần Trọng
Kim, Bùi Kỷ & Phạm Duy Khiêm với Việt Nam Văn Phạm (1940),
Lê Văn Nựu với Lược khảo Việt ngữ (1942), Trà Ngân Lê Ngọc
Vượng với Khảo cứu về tiếng Việt Nam (1944). Cũng có thể kê
thêm Bùi Đức Tịnh, Vài nhận xét về văn phạm Việt Nam(1948).
(2) Đoạn văn đó như sau:
“Phải để riêng một đoạn để nói về chữ cụ. Cụ nguyên
dùng để xưng người có tuổi ngang với tuổi cụ sinh ra ông mình, vả lại người ấy
có khi còn có đức vọng phẩm giá giữa xã hội nữa. Nhưng càng ngày người ta càng
làm cho cái tôn xưng ấy hoá ra rẻ rúng: mới bốn năm mươi tuổi đã tưng nhau lên
cụ rồi, nếu là quan, còn thêm: cụ lớn.
Cái danh từ này nguyên chỉ có ở miền Bắc. Ở Huế cũng có cụ mà là một thứ cụ
khác. Cụ ở đây là một người trai trung niên, làm thuê ngày, cuốc đất gánh phân
chẳng hạn. Tức như cụ Ngáo, tay đao phủ có tiếng, đuợc gọi bằng cụ không phải
vì có tuổi mà vì làm cái nghề ấy cũng coi như cuốc đất gánh phân.
Ở đó trước kia dầu là một vị đại thần già cả người ta cũng chỉ gọi bằng quan
lớn. Từ ngày có hai vị đại thần Cao Xuân Dục và Cao Xuân Tiếu là cha con đồng
triều, người ta đã gọi con là quan lớn rồi, không lẽ cũng gọi cha bằng quan
lớn, bèn theo thói Bắc mà gọi là cụ lớn. Sau đó, ở Huế, lần lượt có các vị
thượng thư là Phạm Văn Thụ, Phạm Quỳnh, Bùi Bằng Đoàn, đều người Bắc cả, cái
danh từ cụ lớn mới thạnh hành. Trước năm 1945, khắp cả miền trung, tỉnh nào
cũng rặt những cụ lớn là cụ lớn, không cứ gì là thượng thư, tổng đốc. (Tôi biết
những người ở thời trước như các bậc Phạm Phú Thứ, Nguyễn Thuật ở Quảng Nam,
tuy làm quan lớn, đến nay người trong tỉnh nhắc tới cũng gọi là quan Thượng
Đông (Phạm làm Tổng đốc Hải dương), quan Thượng Hà đình (Nguyễn) chứ không gọi
bắng cụ.)
Thấy một cái tôn xưng rẻ tiền quá như thế, dơ lắm, có kẻ từ chối không nhận
người khác gọi mình bằng cụ nhưng nào có được, vì gọi cũng chẳng mất chi, người
ta cứ gọi. Nhưng cũng lại có kẻ không được gọi bằng cụ thì đâm ra hằn học, căm
tức, thôi thì chẳng gây thù gây oán ra làm chi, người ta cứ gọi cho. Vì vậy mà
tiếng cụ ngày nay lan tràn ra cả nước, hoặc giả chỉ Nam bộ tuy có mà
chưa được phổ biến. (tr. 111-112)
(3) Trong bài báo nặng giọng trịch thượng của kẻ cả, một nhà giáo ở Hà Nội đã dùng ‘nhân dân’ để mong
uy hiếp tinh thần một nhà nghiên cứu ‘không cùng phe’ với ông về
một vấn đề phức tạp, mặc dù có lẽ ông cũng thừa biết là trong nghiên cứu khoa
học, sự hiểu biết của cái gọi là 'nhân dân' thật mong manh. (Xem Nguyễn Thạch
Giang, “Khảo sát những điều kiện tồn tại của những giả thuyết xung quanh vấn đề
dịch giả Chinh Phụ Ngâm Khúc”, Tạp chí Hán Nôm 1.1993, tr.
3-14). Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác.
No comments:
Post a Comment