LẠI BÀN VỀ CHUYỆN
ĐI TÌM VIỆT NAM TẠI HẢI NGOẠI
Đoàn Xuân Kiên
1 Bài viết này được gợi ý từ
đoạn cuối bài viết cuả Gs. Nguyễn Văn Trung* , khi ông đặt vấn đề
xây dựng sinh hoạt văn hoá cho cộng đồng hải ngoại để khỏi sa vào những ảo
tưởng hay nguỵ tín về những hoạt động văn hoá-chính trị trước nay. Ông đưa ra
một thí dụ điển hình là lời hô hào cuả một nhà hoạt động khác khi vị này
cho rằng những ai có lòng nghĩ đến đất
nước thì nên góp phần mình vào công cuộc xây đắp cho phong trào dân chủ trong
nước, chứ không nên phí thì giờ (như Sisyphe) làm việc với các tổ chức hải
ngoại, vì đã hơn hai mươi năm rồi họ chỉ biết cãi vã nhau để quên một việc
chính yếu là "chúng ta phải làm gì, và làm thế nào để có kết quả".
Quan điểm cuả hai vị phản ảnh hai quan điểm khác biệt về cộng đồng người Việt
chúng ta. Khi đọc đến những gợi ý trên, chúng tôi không khỏi liên tưởng đến bối
cảnh sinh hoạt cộng đồng hiện nay, và tự hỏi: liệu rằng một thành phần khá đông
trong cộng đồng có tán thành với cả hai lời đề nghị trên đây chăng ? Thành phần
này vẫn thường tự cho mình cái quyền chống cộng, và sẵn sàng phê điểm chống
cộng bất cứ ai không làm như họ. Xem ra cả hai hướng gợi ý cuả quý vị đều chệch
ra khỏi quỹ đạo suy nghĩ và làm việc cuả họ.
Nhận định đầu tiên cuả chúng tôi là: sinh hoạt cộng đồng
chúng ta không đơn giản, và nó phản ảnh một tình hình đa dạng cuả một tập thể
đa dạng nằm trong một khung cảnh cộng đồng thế giới đang đổi thay lớn, trong đó
bất cứ sự giản lược tầm nhìn nào cũng trở nên thô thiển, lạc điệu. Trong một
khung cảnh thế giới phức tạp như thế, gợi ý về một sự suy nghĩ nền tảng đối với
dự phóng hoạt động là một việc cần thiết. Gs. Trung có nói đến bệnh "duy ý
chí" [1]
trong cộng đồng người Việt trong và ngoài nước, và ông bày tỏ sự lo ngại về mức
độ nghiêm trọng cuả bệnh duy ý chí ở cộng đồng hải ngoại, vì nó thể hiện ở khá
đông những người có học. Đây là một lời nhận xét khá nghiêm khắc, nhưng xét ra
không phải là quá xa thực tế.
Thực tế có vẻ như rối nát, chẳng mấy hi vọng. Nhìn về trong
nước hay nhìn lại cộng đồng hải ngoại, những "hiện tượng" tiêu cực
tràn ngập từ cấp lớn xuống cấp nhỏ, đến nỗi không còn nhìn thấy cái "bản
chất" cuả cái gọi là Việt Nam đâu nưã. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn cảm thấy
không hẳn là mọi thứ đều "quân hồi vô phèng" cả. Nhìn ở bình diện văn
hoá học, dường như trầm lắng dưới đáy những hiện tượng "mười phần chín
chẳng như" vẫn còn dòng chảy văn hoá cuả dân tộc đang trườn mình về tương
lai.
2 Nhưng như thế thì thực tiễn
Việt Nam hôm nay là gì ? Việt Nam đang đứng ở đâu giưã thực tiễn lớn lao hơn,
là cảnh quan thế giới hôm nay ?
Việt Nam hiện nay là một cộng đồng quốc gia đa dạng, bao gồm
rất nhiều những yếu tố đối lập nhau: quốc nội và hải ngoại, quốc gia và cộng
sản, lương-giáo, trẻ-già... Trong mỗi thành phần này lại phân hoá thêm nhiều
nưã. Cộng đồng hải ngoại chẳng hạn, gồm rất nhiều thành phần: bắc-nam,
hoa-việt, cực đoan-ôn hoà, thủ cựu-cấp tiến, phật giáo-công giáo, trẻ-già, tị
nạn cũ-mới... Tổ chức người Việt mọc ra
như nấm, và phản ảnh tầm nhìn, quan điểm cuả mỗi nhóm, và rất nhiều khi chỉ
muốn phủ định sự có mặt cuả những nhóm khác mình. Sự phồn tạp như thế tự nó
cũng có nét đẹp cuả nó, là thể hiện tinh thần tự do cuả con người; chỉ khi nó
lạm dụng quyền tự do để đi đến hành động muốn triệt tiêu kẻ khác, thì có
"vấn đề" đấy. Trong cộng đồng đa tạp như cộng đồng chúng ta, ai có tư
cách gì để đòi cấm đoán người này, tổ chức này làm việc mà họ chọn lưạ ? Ai có
tư cách gì để phán xét người này là chống cộng, người kia thì không ? Ai có thể
tự cho là mình "yêu nước" hơn kẻ khác ? Hai mươi năm qua, người ta
vẫn cư xử với nhau như thế; nhưng cũng có những người khác xem những kiểu tiếp
xử như thế rất là một chiều, thiển cận. Tại sao như thế ? Chỉ vì thái độ như
thế không thể chấp nhận nổi trong khung cảnh một cộng đồng thế giới ngày nay.
Từ mấy thập niên vưà qua, khung cảnh thế giới mà chúng ta
đang sống là một khung cảnh có những biến động lớn, đưa đến những đổi thay lớn.
Có ba yếu tố chi phối mạnh đến sự đổi thay cộng đồng thế giới ở nưả sau thế kỉ
XX:
Trước hết là sự phát triển phi mã cuả tin học và vai trò cuả nó trong đời sống. Tin học phát triển đã
thúc đẩy sự thông tin liên lạc, đã mở rộng cánh cưả để mỗi cá nhân hay cộng
đồng có thể mở cưả ra thế giới rộng lớn. Tin học càng phát triển thì càng xoá
bỏ tình trạng cô lập cuả các cộng đồng. Khả năng tiếp xúc gia tăng thì tầm hiểu
biết về thế giới càng tăng. Sự phát triển tin học đã làm đảo lộn cách nhìn cuả
con người đối với thế giới, thu hẹp dần ảnh hưởng cuả lề thói tư duy thiển cận,
cố chấp. Đây là nhân tố làm thay đổi sinh hoạt văn hoá cuả cộng đồng thế giới.
Lằn ranh giưã tiến bộ và lạc hậu, giưã cô lậu và hoà đồng trở nên rõ ràng hơn,
dứt khoát hơn.
Yếu tố thứ nhì là sự
thay đổi cuả thế giới tư bản và cộng sản trong nưả sau thế kỉ XX, đã vượt
bỏ những cách nhìn thế giới và xã hội như là giai đoạn trước và sau thế chiến
II. Hoạt động kinh tế-xã hội ở nưả sau thế kỉ XX đã phát triển khác hẳn trước
kia: hình thái tư bản độc quyền không diễn tiến theo như tiên đoán cuả người
cộng sản. Các công ti đa quốc gia càng ngày càng phát triển, cùng nhịp với sự
phát triển các cộng đồng kinh tế khu vực trên thế giới. Sự đối đầu đã không còn
chỗ đứng, mà thay thế bằng thái độ hợp tác để cộng tồn. Đó là xu thế chung cuả
thế giới tư bản. Khối thế giới cộng sản cũng trải qua những khủng hoảng lớn,
bắt đầu từ phong trào xét lại (thập niên 1960), tiếp đến là phong trào đổi mới
(thập niên 1980), rồi tan rã. Cả một cảnh quan thế giới đã tàn lụi, để đưa đến
một "trật tự thế giới mới". Đây là một chuyển biến rất mới cuả cục diện
thế giới. Tìm hiểu về hiện tình thế giới mà không nhìn nhận sự thể là một trật
tự thế giới mới đang hình thành, chỉ là thái độ "con đà điểu". Trong
cục diện thế giới như thế, cộng sản hay tư bản, hoặc nói theo cảnh ngộ người
Việt," quốc gia" và "cộng sản" chỉ còn là một hình ảnh cuả dĩ vãng, cuả
những lực lượng xã hội đã hết vai trò lịch sử cuả chúng.
Yếu tố thứ ba là, về mặt sinh hoạt tinh thần cũng đang trải
qua một sự thoát xác lớn lao chưa từng thấy trong suốt một thế kỉ sôi động cuả
sinh hoạt văn hoá. Các tư trào đã thay chân nhau trong những thời hạn rất ngắn
ngủi. Đến cuối thế kỉ thì trong khắp các điạ hạt trí thức, người ta nói nhiều
đến "thời kì hậu-hiện đại"
như một thời thượng tri thức. Cốt lõi cuả "chủ nghiã hậu hiện đại" [2] là
sự nhận thức cuả văn hoá hiện đại rằng phải
phá bỏ hết mọi huyền thoại về sự hiểu biết chân lí cuộc sống. Con người
trong thế giới hiện đại đứng trước một viễn ảnh rất chông chênh: những gì mình
hiểu biết về thế giới chỉ là một hạt cát sông Hằng, chẳng có tư thế gì mình có
thể hãnh tiến để phê phán, kết án cái biết cuả người khác.
Xu thế chung cuả thế giới ở cuối thế kỉ XX là một sự đương
đầu với thái độ độc quyền, và tiến đến một cộng đồng thế giới đa nguyên. Trước
kia, sau thế chiến II, thế giới chia thành những khu vực đối đầu nhau, khiến
cho tất cả các khối ảnh hưởng đã trở nên những khối phòng ngự. Nhưng khi bước
vào thập niên 90, thế giới xoay đổi gia tốc. Không còn đối đầu, chẳng còn phòng
ngự. Mà chỉ còn tiến công vào sự lạc hậu, phân hoá, thù hận. Trên sân khấu cuả
cộng đồng thế giới đang diễn ra sự cộng tồn cuả những yếu tố đối kháng nhau, và
ở một mức độ nào đó đang có sự đấu tranh giưã những yếu tố đó, như một tất yếu
cuả sự vận động xã hội. Cục diện mới cuả thế giới đang là tiền đề cho một kỉ nguyên đa nguyên đang trên đà thành
hình trên khắp các mặt cuả cuộc sống. Một cảnh quan văn hoá mới cuả thế giới
chăng ? Hãy còn quá sớm để kết luận như vậy. Chỉ có một điều đã hiển nhiên là
hệ thống giá trị mới, tư tưởng đa nguyên, đang là sự vận hành mới cuả văn hoá thế
giới.
3 Sự vận động cuả cộng đồng
Việt Nam chúng ta không thể tách rời sự vận động chung cuả khung cảnh văn hoá
chung cuả thế giới. Văn hoá Việt Nam đã trải qua những biến động lớn từ hơn năm
trăm năm nay, kể từ khi văn hoá Đại Việt [3]đạt đến
đỉnh cao cuả nó rồi, bắt đầu trải qua thời kì suy thoái cuả nó. Những bất ổn
chính trị, sự sa sút về giá trị tinh thần phơi bày ra trên bề mặt sinh hoạt xã
hội ở đầu thế kỉ XVI là những dấu hiệu mở đầu cuả một thời kì khủng hoảng văn
hoá, những dấu hiệu chỉ báo về một thoái trào cuả văn hoá Đại Việt. Hệ giá trị
tinh thần do sự tổng hợp tư tưởng và nhân sinh quan tam giáo (Phật giáo, Nho
giáo, Lão giáo) đạt được ở thời kì mà Trần Quang Khải đã cảm khái rất tự hào:
"Lí đại quan hà nhị bách niên" (giang san nhà Lí trải dài qua hai trăm năm) và Trúc Lâm Yên Tử
(thế kỉ XIII), khi sang đến triều đại nhà Lê thì đã trở nên nghèo nàn, sa sút.
Các vua nhà Lê đã theo xu hướng chung cuả học phong Đông Á mà đưa Tống Nho [4] lên
điạ vị độc tôn. Kịp đến khi người phương tây đến giao thương với đất Đại Việt,
kéo theo đó là sự truyền bá tín ngưỡng Ki-Tô-Giáo và sau nó là văn hoá phương
tây, thì văn hoá Đại Việt chính thức bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng.
Kỉ nguyên văn hoá mới cuả dân tộc đã manh nha từ đây.
Liên tiếp năm trăm năm nay là những xung đột xã hội mà gốc
rễ cuả chúng là những xung đột văn hoá nghiêm trọng: giưã hệ ý thức phong kiến
Tống Nho và hệ tư tưởng phi-Nho, giưã văn hoá phong kiến và văn hoá nông dân,
giưã văn hoá truyền thống và văn hoá ngoại lai. Trong cảnh quan sinh hoạt văn
hoá như thế, văn hoá vô sản -mà các nhà lí luận Marxiste vẫn tô vẽ cho đậm- chỉ
là một tư trào, dù có nhiều sức mạnh áp đảo cũng chỉ là sức mạnh gieo hoạ máu
và nước mắt nhiều hơn cả, vì nó là "đỉnh cao" cuả những hệ giá trị tư
tưởng nhị nguyên đã lần lượt thay chân nhau thống trị tư tưởng học phong.
Văn hoá vô sản đã tự chứng tỏ khả năng thích nghi kém cỏi cuả nó vào thời kì
hậu hiện đại, nên đã mất sức lôi cuốn đối với một nưả thế giới. Sự sụp đổ cuả
cơ chế xã hội cộng sản là kết quả cuả sự thất bại cuả một tư trào văn hoá cuả
thời hiện đại.
Một nét lớn cuả văn hoá Việt Nam trong suốt thế kỉ XX là ở
tính cách đấu tranh quyết liệt giưã các thành phần cuả văn hoá dân tộc. Đạt mức
căng thẳng cao độ là những thập niên cuối này cuả thế kỉ, khi thế giới đã bước
vào thời kì văn hoá "hậu hiện đại". Ở trên kia đã nói qua về những
thành phần đối kháng nhau trong sinh hoạt văn hoá chúng ta trong mấy chục năm
qua. Nếu chỉ liệt kê ra, dù có theo từng cặp đối lập, thì cũng không tránh khỏi
vụn vặt; chúng tôi nghĩ là có thể quy những thành phần đối kháng nhau đó vào
hai thành phần chính, dưạ trên tính cách cuả chúng trong mối quan hệ lẫn
nhau: "văn hoá mới" và
"văn hoá cũ". [5] Ở
đây, chúng tôi hiểu văn hoá cũ là những hệ thống giá trị tinh thần đương đại,
xem như những khuôn mẫu về giá trị cuả một cộng đồng, và là hệ quy chiếu giá
trị cho mọi hình thái sinh hoạt văn hoá cuả cộng đồng đó. Một cộng đồng càng có
chiều dày lịch sử thì sự tích luỹ những hệ giá trị càng phong phú. Ngược lại,
văn hoá mới là những hệ giá trị đương hình thành, có thể là kết quả cuả sự kế
thưà và phát triển từ những hệ giá trị cũ, mà cũng có thể là do sự phản động
lại những hệ giá trị cũ. Cần nói ngay là ý niệm cũ mới ở đây chỉ là những cái
mốc cuả quá trình tiến hoá, không phải là những phán đoán giá trị. Trong quá
trình biện chứng sinh thành thì văn hoá mới hôm nay sẽ là cũ trong tương lai.
4
(1) Thành phần văn hoá thủ cựu,
lấy hệ giá trị cuả mình làm thước đo giá trị:
Quy vào thành phần văn hoá này là những thành phần thuộc mọi
khuynh hướng trước kia đã một thời chiếm lĩnh điạ bàn sinh hoạt văn hoá. Đâu là
những thành phần "văn hoá cũ" đó ? Nhìn lại đấu trường văn hoá cuả xã
hội Việt Nam, có thể nhận thấy thành phần này rất đông, phức tạp. Thành phần
này trải rộng ra từ những tầng lớp xã hội chọn lưạ hệ giá trị phong kiến Tống
Nho, hệ giá trị vô sản,... Dù là những hệ giá trị khác nhau nhưng tất cả đều có
chung một tính cách, là thủ cựu. Điều
đó chẳng có gì ngạc nhiên, nếu ta nhớ là phần lớn các thành phần văn hoá này
đều xuất thân từ hệ tư tưởng nông dân, vốn rất bảo thủ, thậm chí cố chấp. Điều
này cũng cắt nghiã tại sao hệ tư tưởng phương đông thường bị xem là trì trệ, có
sức "ì" lớn.
Thành phần văn hoá cũ còn gồm cả những hệ giá trị cuả những
người thường gọi chung là những người "chống cộng ", "quốc
gia" trong cộng đồng dân tộc chúng hiện nay, dù là ở trong nước hay ở hải
ngoại. Đã có một số công trình nghiên cứu về các phong trào "quốc
gia" ở Việt Nam. Nhưng nhìn ở bình diện văn hoá thì rất khó xác định hệ
thống giá trị tư tưởng cuả phong trào "quốc gia" này. Lí do là không
có một hệ giá trị tự thân cuả thành phần xã hội này: những người tự nhận là
"quốc gia" hiện nay là hậu duệ cuả nhiều thành phần xã hội: hoặc là
hậu duệ cuả nho gia phong kiến, hoặc cuả thế hệ thư lại, trí thức thuộc điạ,
hoặc nưã là xuất thân từ thành phần thị dân mới phát triển cuối chế độ phong
kiến. Không có những bằng chứng rõ nét cuả hệ giá trị tư sản (theo lí luận duy
vật lịch sử cuả người Marxiste) trong xã hội chúng ta. Vì như chúng tôi đã trình
bày, hệ giá trị chủ đạo cuả xã hội Việt Nam cho đến nay vẫn chưa thoát ra hệ tư
tưởng nông dân. Những người "quốc gia" này chỉ là phản diện cuả người
cộng sản mà thôi. Thành phần văn hoá này cũng tỏ ra rất khó tiếp thu những nhân
tố mới, khiến đã xảy ra những trận "huyết chiến" để tử thủ những giá
trị tinh thần mà họ tôn sùng.
Tập hợp thành phần văn hoá cũ như thế thì khá rộng, bao gồm
nhiều tập hợp nhỏ rất khác biệt nhau về nhiều mặt, nhưng lại đồng nhất với nhau
ở một điểm duy nhất nhưng lại rất cơ bản. Đối với tất cả những người này thì
"đằng sau dãy núi Pyrénées là sự sai lầm". Đối với thành phần văn hoá
thủ cựu này thì lịch sử cuả loài người đến họ là ngừng lại. Hệ giá trị cuả họ
là đỉnh cao cuả trí tuệ loài người. Vì thế kẻ nào không quy phục chủ nghiã cộng
sản là không yêu nước, là kẻ "địch", phải dùng bạo lực cuả chuyên
chính mà tiêu diệt chúng. Cũng theo một khuôn lí luận như thế, nhưng ở thể đảo,
thì những kẻ nào chủ trương rằng người cộng sản cũng là người anh em cuả cộng
đồng dân tộc, là những kẻ nối giáo cho "giặc", phải nhân danh lí
tưởng "chống cộng" để bảo vệ lí tưởng "quốc gia"... Con
người được hấp thụ trong bầu không khí văn hoá này thường rất hãnh tiến, thường
tự khoác vào họ những "sứ mệnh lịch sử" là những chiến sĩ bảo vệ lí
tưởng, chân lí, giá trị cuả cuộc sống.
Có những giai đoạn trong lịch sử, những chiến sĩ bảo vệ hệ
giá trị nhị nguyên, thủ cựu kể trên có
thể đã có những lúc nắm được vai trò chính trị để bảo vệ hệ giá trị mà họ sẵn
sàng đổ máu vì nó. Nhưng cũng lại phải ghi nhận một sự thật cuả lịch sử là tất
cả những thời kì đó đều không phải là những thời kì vẻ vang cho lắm trong lịch
sử nước nhà. Lịch sử thường cho rằng đời
vua Hồng Đức (thế kỉ XV), Minh Mạng, Tự Đức (thế kĩ XIX) là những thời kì vẻ
vang cuả văn hoá Đại Việt. Điều này có thể cần phải xét lại. Ở đây cần phân
biệt là xã hội thanh bình và văn hoá
phát triển. Xã hội không có chiến tranh có thể gọi là một xã hội thanh bình
cũng được đi, nhưng chưa hẳn là xã hội có văn hoá, nếu sự thanh bình là kết quả
cuả sự trấn áp.
Đọc kĩ lại lịch sử những thời kì gọi là thanh bình cuả nước
ta, nhìn lại nó ở cơ tằng văn hoá thì sẽ nghe thấy tiếng kêu than cuả dân
chúng, sự thao thức khắc khoải cuả một xã hội phong kiến, trong đó địa vị
"thiên tử" và "thần dân" là một khoảng cách quá xa. Bộ Luật
Hồng Đức hay bộ luật Gia Long có phải là hai thần hộ pháp cuả một chế độ phong
kiến kéo dài, quá dài ? Chúng ta đừng
quên là Nguyễn Trãi chết oan khốc khi nhà Lê vưà bình định đất nước. Chúng ta
cũng không quên là những thần tử như
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... phải long đong thân thế vì cái hoạn lộ cuả
triều đình nhà Nguyễn. Đọc sử mà nghe ra nhịp đập con tim cuả lịch sử thì có
thể nhận ra rằng thời kì Hồng Đức không huy hoàng như sử quan triều đại xa xưa
vẫn tán tụng, mà chỉ là bắt đầu một thoái trào cuả văn hoá Đại Việt; và thời kì
vua Minh Mạng hay Tự Đức trị vì cũng chỉ là những giai đoạn bi thảm cuả văn hoá
dân tộc: xã hội bất ổn thường xuyên, văn hoá bế tắc, những con người như Nguyễn
Trường Tộ là những con người lạc lõng cuả một thời kì kêu gào đổi mới. Xã hội
trong những giai đoạn vưà kể đều chứng kiến một yếu tố giống nhau: những giá
trị cũ (cuả kỉ nguyên văn hoá Đại Việt) đã chỉ còn là những cái xác vô hồn, mà
những giá trị văn hoá mới (cuả kỉ nguyên văn hoá Việt Nam) cũng chưa kịp hình
thành.
Khi xã hội được mở cưả giao tiếp với văn hoa phương tây thì
sinh hoạt các tầng lớp xã hội cũng đổi thay, hệ giá trị cuả một thành phần xã
hội mới ra đời do kết quả cuả sự phát triển nếp sống thị dân, thương buôn, và
quan lại mới. Thành phần xã hội này sẽ đóng vai trò rất tích cực trong việc
thay đổi bộ mặt sinh hoạt văn hoá Việt Nam ở thế kỉ XIX và XX. Hệ giá trị cuả
thành phần văn hoá này không đồng nhất với hệ giá trị nông dân, mà trong chừng
mực nào đó, vẫn là đầu nguồn cho những bước phát triển văn hoá ở thế kỉ XX. Với
nhịp độ đô thị hoá ở miền Nam Việt Nam, thành phần văn hoá thị dân này đã chiếm
lĩnh vai trò lãnh đạo xã hội trong một thời gian, cho đến khi người cộng sản
vào thay chân họ, đẩy lùi họ vào bóng tối cuả văn hoá cũ.
Như vậy là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong hơn năm trăm năm
qua đã có thưà thời gian để tích luỹ lực lượng văn hoá thủ cựu, bao gồm thành
phần văn hoá phong kiến, văn hoá thời thuộc điạ và cuối cùng là văn hoá vô sản.
Trong khung cảnh thế giới hiện nay, những thành phần văn hoá cũ này đang bị đẩy
lùi dần vào góc tối cuả lịch sử. Mau hay chậm là tuỳ ở nhịp độ phát triển ( cuả
kinh tế xã hội ) và dân chủ ( trình độ dân trí ).
(2) Thành phần văn hoá cấp tiến, lấy hệ giá trị đa nguyên làm thước đo giá
trị:
Những nét phác trên đây có thể gây ngộ nhận là văn hoá dân
tộc chỉ là một mớ hỗn tạp những thành phần văn hoá cũ, bảo thủ. Thật ra, thời
nào cũng thế, luôn luôn có những người hào kiệt để xoay chuyển xã hội đi lên.
Phải nói ngay là trong quá trình lịch sử, thành phần văn hoá này là động lực
cuả mọi phát triển, tiến bộ. Điều kiện tinh thần cơ bản cuả thành phần văn hoá
cấp tiến là không bó hẹp trong khuôn khổ hệ giá trị đương thời, mà sẵn sàng
nhìn nhận những giá trị mới xem như là những nhân tố cuả phát triển, tiến bộ.
Thời nào cũng thế, trong khi thành phần văn hoá bảo thủ chỉ nhìn nhận những giá
trị văn hoá là tĩnh tại, thì những con người cấp tiến nhìn những giá trị, bản
sắc văn hoá cũng chỉ là một "cơ thể sống", đòi hỏi những sinh lực mới
để tồn tại qua chiều dài cuả lịch sử.
Trong quá trình phát triển cuả lịch sử dân tộc, những chiến
sĩ tiền phong cuả văn hoá dân tộc đã hình thành văn hoá Văn Lang từ những nhân
tố cuả bao nhiêu thành phần văn hoá trước đó. Nhưng khi đạt đến những đỉnh cao
cuả kỉ nguyên văn hoá Văn Lang, dân tộc chúng ta không ngừng lại. Đất nước rơi
vào vòng Bắc thuộc là một bất hạnh cuả lịch sử, nhưng lại là cơ duyên cho một
giao lưu văn hoá lớn lao suốt một ngàn năm. Văn hoá Đại Việt là kết quả cuả một
sự thoát xác văn hoá lớn mà thành, hẳn nhiên phải do công đầu cuả những con người cấp tiến ,
tiền phong thuộc về kỉ nguyên đó. Sự vận động văn hoá đã liên tục trỗi dậy từ
khi hai bà Trưng nổi dậy (thế kỉ I ) cho đến khi nhà Lí lên ngôi vua, và đưa
văn hoá Đại Việt lên đỉnh cao rực rỡ. Những bộ óc lớn cuả triều đại vua Lí đã
đưa hệ giá trị văn hoá "dung tam tế" lên một đỉnh cao cuả thời kì
lịch sử các vị. Khi lịch sử đã đủ dài để có một cái nhìn quán xuyến thì lịch sử
cũng đã phải thưà nhận thời Lí-Trần là một đỉnh cao cuả cả kỉ nguyên văn hoá Đại
Việt.
Trở lại thời đại cuả chúng ta. Văn hoá dân tộc thuộc kỉ
nguyên Đại Việt đã lùi vào dĩ vãng. Một kỉ nguyên mới đang trên đường hình
thành suốt năm trăm năm nay: kỉ nguyên văn hoá Việt Nam. Suốt năm trăm năm qua,
chúng ta đã được biết được rất nhiều tên tuổi những cá nhân và tập thể những
con người cấp tiến, tiến bộ đã tiếp nối nhau góp phần tô điểm cho việc định
hình kỉ nguyên văn hoá Việt Nam cho dân tộc. Những con người như Ngô Thì Nhậm,
Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,... là những con người tiên
phong ở thế hệ cuả họ. Vai trò lịch sử cuả họ bền vững hay ngắn ngủi là do khả
năng thích nghi cuả họ đối với những hệ giá trị mới, thể hiện qua khả năng tự
phủ định để tiếp nhận nhân tố văn hoá mới.
Bước vào thập niên cuối thế kỉ XX, lịch sử dân tộc chứng
kiến một bước ngoặt lớn: trật tự thế giới mới đang hình thành, những hệ thống
giá trị cũ đang chịu thử thách khốc liệt cuả lịch sử. Đảng cộng sản Việt Nam
hay những người chống cộng, đều bị tắc nghẽn trong vũng lầy hệ tư tưởng nông dân
và những phó sản cuả nó, và do đó đã tỏ ra thiếu khả năng thích ứng với thời
đại đang đổi thay. Nhưng trong xã hội vẫn đã và đang có những con người nhìn ra
một bình minh mới cuả lịch sử. Họ có thể là người tu sĩ Phật giáo, Thiên chuá
giáo, có thể là người trí thức hay nông dân, họ cũng có thể là người chiến sĩ
hay công nhân... Mọi thành phần xã hội Việt Nam đều xuất hiện những con người
tiến bộ, cấp tiến, có khả năng vứt bỏ gánh nặng xiềng xích văn hoá cũ để lên
đường tạo một thời mới.
Thời đại mới không còn là thời kì độc chiếm sân khấu sinh
hoạt xã hội cuả những chủ nghiã độc quyền.
Hiện nay, cuộc vận động cho phong trào dân chủ đa nguyên ở cuối thế kỉ XX đã
bùng lên từ những ánh lưả duy tân cuả một
thời đại mới, mà biểu tượng cuả thời đại là những chiến sĩ trong nhà tù vì
lí tưởng đấu tranh chống lại thái độ độc quyền cuả người cộng sản, và giương
cao ngọn cờ tự do và dân chủ đa nguyên. Họ cũng còn là những người đang vận
động dân chủ ở khắp nơi tại hải ngoại trên mọi điạ bàn hoạt động: văn nghệ, hoạt
động xã hội, truyền thông, chính trị, giáo dục... Những người vận động cho dân
chủ đa nguyên ở cuối thế kỉ XX này cũng đang nối tiếp những thế hệ tiền phong
trước kia, không hề dị ứng với bất cứ những hệ giá trị cuả văn hoá cũ, trong đó
có cả văn hoá cuả người vô sản. Nhưng, cũng như
các thế hệ đi trước, họ không còn thấy bất cứ thành luỹ phòng ngự cuả
những hệ giá trị đó là có thể chấp nhận được. Tất cả những hệ giá trị tinh thần
nào không có khả năng thích nghi vào một thời đại mới thì sẽ không có đủ sinh
lực đi vào tương tai.
Thành phần văn hoá cấp tiến, tiến bộ hiện nay nhìn nhận
những giá trị truyền thống, nhưng cũng hiểu rằng những cái gọi là "giá trị
truyền thống", "bản sắc Việt Nam" chỉ là những cái xác không hồn
nếu chúng không giúp cho đất nước chúng ta vực dậy mà bước vào thế kỉ XXI. Cuộc
vận động lâu dài cuả xã hội Việt Nam để đi tìm bản sắc văn hoá mới, đã diễn ra
từ năm trăm năm có lẻ rồi, chứ chẳng phải là mới đây. Hãy trở ngược thời gian
để nhìn lại những làn sóng duy tân đất nước từ thế hệ cuả những Nguyễn Trường
Tộ qua các thế hệ Đông Kinh Nghiã Thục, rồi thế hệ Tự Lực Văn Đoàn, thế hệ Nhân
Văn Giai Phẩm ngoài bắc và Sáng Tạo trong nam... Tất cả đã liên tục khai phá
những bước phát triển mới cho sinh hoạt văn hoá cuả từng giai đoạn. Văn hoá dân
tộc ở mỗi thời kì tiến hoá như vậy đều làm những cuộc gạn đục khơi trong quá
khứ để thoát xác thành những hệ giá trị mới. Lịch sử là những đợt thoát xác nối tiếp nhau. Ở mỗi
giai đoạn như thế, có thể là có sự kiện mà nhiều nhà lí luận văn hoá vẫn xem
như là những giai đoạn "khủng hoảng văn hoá". Khủng hoảng chỉ là một
cách nhìn từ thế đứng cuả những hệ giá trị đã bị vượt qua mà thôi. Cho nên
khủng hoảng đối với văn hoá cũ lại là một thời kì chuyển tiếp cuả văn hoá mới.
Hành lí cuả lịch sử dân tộc bốn nghìn năm là một hành lí phong phú nhưng nặng
nề. Đứng trước ngưỡng cưã cuả thế kỉ mới, cuộc kiểm thảo văn hoá là một sự tất
yếu cho một cuộc lên đường lành mạnh.
Như thế thì lằn ranh giưã tiến bộ và thủ cựu được vạch ra
một cách dứt khoát. Từ hơn mười năm nay, những người tiền phong cuả phong trào
dân chủ đa nguyên đang là đối tượng chống phá cuả mọi thành phần văn hoá thủ
cựu. Điều này đã chứng tỏ xu thế cuả lịch sử đang li khai với những hệ giá trị
cũ, và nhân tố văn hoá mới đã và đang chiếm lĩnh vai trò lịch sử trong xã hội.
Chưa bao giờ lại có sự liên minh "tuyệt hảo" giưã những tiếng nói đối
nghịch nhau nhưng lại giống nhau về bản chất: cực đoan, cố chấp, thủ cựu. Nhưng
cũng chưa bao giờ nhu cầu văn hoá lại trở nên khẩn trương hơn.
5 Hai
thành phần cuả cuộc đấu tranh văn hoá vưà kể đang vận động như thế nào trong
khung cảnh xã hội hiện tại ? Trước hết, cần ghi nhận là thế hệ chúng ta hôm nay
đang nối tiếp thế hệ cha anh trong cuộc vận động chuyển tiếp dài lâu, để góp
phần xây dựng một kỉ nguyên văn hoá mới. Hoạt động xã hội, giáo dục, kinh tế,
văn nghệ,... tất cả mọi sinh hoạt xã hội đều là những phần việc cuả một thời kì
chuyển tiếp này.
Có nhiều hình thái giao lưu trong thời kì chuyển tiếp, giưã
hai thành phần văn hoá, và cả giưã các yếu tố cuả mỗi thành phần văn hoá nói
trên.
(1) Trước hết là sự chung sống
giưã các thành phần khác nhau cuả hệ giá trị "văn hoá cũ". Hiện
nay, sự cộng tồn cuả những thành phần văn hoá thủ cựu đang diễn ra những xung
đột gay gắt. Sự chung sống không có hoà bình, nhưng không có con đường nào
khác. Có thế mới hiểu được là thỉnh thoảng trong cộng đồng "người Việt
chống cộng" ở hải ngoại mới nổi lên lời hô hoán rằng có cộng sản trà trộn
trong nội bộ cộng đồng họ, và phải "quét sạch chúng" đi. Và ngược
lại, nhà cầm quyền Hà Nội không ngừng lên giọng cảnh giác về sự len lỏi cuả
"kẻ địch" qua những chiến dịch "tấn công hoà bình",
"chuyển lưả về quê nhà"...
Như đã trình bày, trong tình hình hiện nay, những con người
chống đối nhau một mất một còn, lại cũng có thể là những kẻ rất giống nhau
trong việc chống phá những người tiền phong cấp tiến. Hãy lấy trường hợp người
cộng sản và người "quốc gia chống cộng" đồng thanh tấn công chủ trương "hoà giải-hoà hợp dân tộc".
Người cộng sản không bỏ lỡ cơ hội để hô hào "hoà hợp hoà giải dân
tộc", nhưng lại không hết lời thoá mạ những ai muốn "hoà giải hoà hợp
dân tộc". [6] Vì
lẽ rằng những người dân chủ trong và ngoài nước khi đưa ra phương châm "
hoà giải hoà hợp dân tộc" là đã tấn công vào tim đen cuả một thái độ thù
địch cuả thành phần văn hoá cũ, tấn công vào chính lẽ tồn tại cuả thái độ muốn
độc quyền, một thái độ ứng xử thiếu văn hoá.
Cùng một thái độ ứng xử tương tự như trên, nhưng ở một tư
thế đối lập hẳn, những người gọi là "chống cộng" trong cộng đồng sẵn
sàng nhân danh lí tưởng chống cộng để có thể lên án những người chủ trương hoà
giải hoà hợp dân tộc là tự trói mình quỳ lạy cộng sản để xin bắt tay cộng tác,
là đầu hàng, là phản bội (!). Thái độ cực đoan đã dẫn đến những hành vi bạo
động, chẳng hạn như hô hào tẩy chay sách báo, hoặc kéo lê trên đường phố mấy
quyển sách in tại hải ngoại đặt vấn đề đối thoại với người cộng sản, dù là để
nhằm mục đích gợi mở ý thức về sự phi lí cuả tham vọng độc quyền chân lí. [7] Thái
độ như thế thật chẳng khác gì với hành vi cuả khối hồi giáo cực đoan khi họ đốt
sách, tuyên án tử hình nhà văn Salman Rushdie - một hành vi khó giải thích nếu
không nhìn từ bình diện văn hoá.
Những thành phần văn hoá đối lập nhau thường chỉ muốn triệt
tiêu lẫn nhau; nhưng lịch sử cũng phơi bày một nghịch lí vĩ đại là những kẻ tử
thù như thế lại đang rất cần nhau để tồn tại, và để bảo vệ lẽ tồn tại cuả mình.
Dù là người chống cộng hay là người cộng sản, sự phân biệt địch-ta rất là mạnh.
Người cộng sản dưạ vào lí thuyết đấu tranh giai cấp để mà tạo dựng một tấm bình
phong chính trị rất hiệu nghiệm là chuyên chính vô sản. Ngày nay, người cộng
sản Việt Nam vẫn còn lưu luyến với hai vũ khí cốt tử cuả họ để bám víu quyền
lực. Người "quốc gia" phải dùng oán để báo oán, và xem là thứ vũ khí
cốt tử cuả họ để đền bù lại những mất mát, những đau nhục cuả chiến bại và bị
hành hạ.
Tại sao lại có những hiện tượng đau lòng như thế ? Chúng tôi
trộm nghĩ rằng những mâu thuẫn kịch liệt trong nội bộ thành phần "văn hoá
cũ" một phần rất lớn là hệ quả cuả lối ứng xử cuả tư tưởng nông dân, mà
đặc tính cuả nó là sự bảo thủ, trì trệ. Tư tưởng nông dân rất khó tiếp thu
những yếu tố văn hoá mới. Một lĩnh tụ cộng sản đã phải thốt lời nhận xét về ý
thức nông dân như thế này: "Đối với người nông dân thì chỉ sự thuyết phục
cao nhất là chính luống cày cuả họ." Luống cày vưà cho họ cái lợi, lại vưà là một đối tượng cụ thể. Hai thuộc tính cuả lối suy nghĩ kiểu
nông dân như thế là hai biểu hiện cuả óc thiển cận, và từ đó đến óc cố chấp thì
khoảng cách không xa bao lăm. Hễ đã tin tưởng một điều gì là chân lí thì người
nông dân không dễ thay đổi, và sẵn sàng sống chết cho niềm tin đó. Tâm lí nông
dân chính là một lối biểu hiện cuả quan điểm nhận thức nhị nguyên: hễ tôi đúng
thì anh phải sai. Con người ta sống ở thành thị, trong một quốc gia tân tiến
hàng đầu cuả thế giới, nhưng sự nhận thức cuả họ không theo kịp với trình độ
nhận thức cuả xã hội chung quanh. Nhận thức cuả họ vẫn gắn liền với nhận thức
cuả một xứ nông nghiệp-thuộc điạ. Sự thật có vẻ phũ phàng, nhưng đúng là như
thế.
(2) Ngoài ra, còn có sự chung
sống giưã hai thành phần "văn hoá cũ" và "văn hoá mới".
Trong lòng xã hội Việt Nam đã không ngừng dấy lên những tiếng nói ngược chiều.
Đó chính là những dấu hiệu cuả sự xung đột giưã hai hệ giá trị cũ và mới trong
xã hội. Một thí dụ: vào thập niên 70, hệ giá trị văn hoá vô sản còn đang thống
trị tuyệt đối trong nước, một nhà lí luận văn học tại Hà Nội viết một bài báo
ngắn tổng kết thành quả cuả ba mươi năm văn học hiện thực xã hội chủ nghiã tại
Việt Nam. Tác giả cho rằng đó chưa thật sự là văn học hiện thực xã hội chủ
nghiã đúng nghiã, mà chỉ là một nền "văn học hiện thực phải đạo". Lối
dùng uyển từ phải đạo chỉ là một cách
nói khéo về sự so sánh kín đáo giưã nền văn học này với thứ văn học "văn
dĩ tải đạo" thời phong kiến. Thật vậy, văn học gì mà chỉ có những nhân vật
"phải là" (những hình mẫu chỉ có trong trí tưởng) chứ không phải là những
nhân vật "đang là" (những con người bình thường hằng ngày cũng có
hạnh phúc và đau khổ, và khi đau khổ thì cũng biết khóc). Đây là một tiếng nói
mới lẻ loi đơn độc ném ra giưã một khung cảnh văn hoá đang rất dị ứng với cái
mới.
Nhưng rồi, "khi quần chúng tự thức tỉnh, và nhận ra
rằng không thể chấp nhận một cuộc sống như cũ nưã", thì xuất hiện những
Đức Nhuận, Quảng Độ, Nguyễn Đan Quế và Đoàn Viết Hoạt cùng những người như Tuệ
Sĩ và Lê Mạnh Thát, rồi sau đó những Nguyễn Kiến Giang, Hà Sĩ Phu, Bảo Cự...
Tất cả đã lên tiếng cách khác nhau nhưng cùng đặt lại giá trị nền tảng cuả hệ
giá trị hiện tồn trên đất nước. Hệ giá trị văn hoá đương đại bỗng nhiên hết còn
là những giá trị bất hoại. Phong trào vận động dân chủ đa nguyên hiện nay đã
thu hút những nhân vật trong đảng và ngoài đảng cộng sản, và đang là một nhân
tố quan trọng để thúc đẩy sự thành hình một mũi tiến công trên toàn bộ cuộc
sống văn hoá dân tộc. Văn hoá cộng sản chỉ còn là thứ "vật chất" cũ
kĩ, đang chờ đợi sự đào thải cuả lịch sử. Sự đấu tranh giưã cái cũ và cái mới
như thế là một sự đấu tranh đối kháng cuả thời đại hôm nay.
Tại hải ngoại, sự chung sống cuả hai hệ văn hoá cũ và mới
cũng đang diễn ra dưới một hình thái tương tự. Giưã một tình hình trì trệ cuả
một cộng đồng lưu vong vưà cay đắng cho sự thất bại nhục nhã, vưà bùng cháy một
niềm thù hận, cộng đồng người Việt hải ngoại vùng vẫy trong giấc mơ phục quốc,
buổi đầu chỉ với một vũ khí quen thuộc: bạo lực. Cộng đồng nhận ra rất nhanh là
thế giới đã thay đổi, bạo lực chỉ là một phương tiện không tưởng. Trong lúc ấy
thì phong trào đổi mới ở trong nước bùng lên, phản ánh chút ý thức mong manh về
nhân tố văn hoá mới cuả thời đại. Nhưng rồi sự cởi trói văn hoá đã sớm xiết
chặt lại, phơi rõ bàn tay cuả giới lãnh đạo chính trị trong việc nhào nắn tầm
nhìn và ý thức cuả trí thức, nghệ sĩ trong nước. Sự thất bại cuả phong trào đổi
mới tư tưởng-văn hoá dù sao cũng phản ánh một nhu cầu chính đáng cuả văn hoá
mới. Ngoài ra, nó cũng là một đợt thao diễn cơ bản cuả sĩ khí người trong nước
vậy.
Đối với một thành phần cộng đồng hải ngoại, sự hình thành
mặt trận dân chủ là một hướng hành động mới, phù hợp với một ý thức mới về cuộc
vận động chính trị-văn hoá mới: dân chủ đa nguyên. Sự có mặt cuả những tập thể
như nhóm Thông Luận, Hợp Lưu, Trăm Con,
Đối Thoại... chẳng hạn, là những tiếng nói mới, nổi lên từ một cộng đồng
đang chìm ngập trong hệ giá trị cuả văn hoá cũ. Hành trình văn hoá mới tại hải
ngoại cũng chẳng êm ả gì, vì lẽ tất nhiên là lực lượng văn hoá cũ phải chống
phá để bảo vệ lẽ tồn tại cuả mình. Những hành vi phá hoại và bạo động đối với
những cá nhân và tập thể cấp tiến nói trên là phản ứng tất nhiên cuả văn hoá cũ
trong cuộc "đọ sức lịch sử" này.
Tính cách nổi bật cuả cuộc đối đầu giưã cái cũ và cái mới ở
đây là sự đối đầu cuả hai ý thức: giưã bảo thủ cố chấp và cấp tiến, giưã sự
đoái tưởng dĩ vãng và nhìn về tương lai. Chứng cứ ? Hãy lấy một thí dụ rất dễ
thấy: văn học nghệ thuật. Văn học hải ngoại giai đoạn từ 1975 đến nay phản ảnh
khá rõ hình thái sinh hoạt văn hoá cuả cộng đồng hải ngoại: hai thành phần văn
hoá cũ và mới cùng đan xen với nhau trong cuộc tranh giành ảnh hưởng trong quần
chúng. Và cũng là sự phản ảnh trung thực cán cân lực lượng, rất nhiều phần sinh
hoạt chữ nghiã chỉ là một khoảnh nối dài cuả văn nghệ Việt Nam Cộng Hoà cũ. Nội
dung cuả sinh hoạt văn học nghệ thuật cũng rất nhiều phần là sự đoái tưởng dĩ
vãng. Điều đó cắt nghiã hiện tượng "chựng lại" và "chất vấn
lương tâm" cuả văn nghệ hải ngoại, khi những sáng tác cuả một vài tác giả
cấp tiến trong nước (Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Duy...chẳng hạn)
lọt ra đến ngoài. Ý thức làm mới văn học nghệ thuật chưa phải là một ý thức chủ
đạo cuả giới văn nghệ hải ngoại. Chỉ có một số không nhiều các tập san và nhà
xuất bản thực sự nhìn nhận một thôi thúc mới, đi tìm những giá trị mới cho sinh
hoạt văn hoá.
(3) Bên cạnh hai hình thái chung sống không hoà bình giưã văn hoá cũ
và văn hoá mới, cũng cần ghi nhận thêm một hiện tượng thứ ba: sự lẩn tránh. Đây là dấu hiệu cuả cự
phân hoá thành phần văn hoá cũ mà thôi. Không muốn đối đầu giưã cũ và mới, một
thành phần cuả hệ giá trị cũ tìm được một tuyến phòng ngự khá an toàn: làm văn
hoá thuần tuý, có người gọi là "tô bồi quốc học".
Phải nói ngay rằng trao truyền văn hoá cho thế hệ trẻ là một
nhu cầu thường xuyên, dù là văn hoá cũ hay văn hoá mới, dù là ở trong nước hay
ở ngoài nước. Trao truyền văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ là trao lại tấm căn
cước văn hoá cuả một cộng đồng dân tộc. Chuyện đáng nói ở đây là thái độ chọn
lưạ cuả một thành phần cuả cộng đồng: thái độ lẩn tránh việc nhận diện bản chất
chính trị cuả cuộc đấu tranh giưã hai hệ giá trị văn hoá cũ và mới. Văn hoá dân
tộc đang phải đương đầu một thử thách lịch sử, đang cần phải lột xác để đi vào
kỉ nguyên văn hoá mới. Vậy thì thái độ nào là thái độ chính đáng cuả người làm
văn hoá ? Xây dựng và tô bồi quốc học, nhưng là thứ quốc học cuả bọn trí thức
hương nguyện hay là thứ quốc học do những nhà yêu tiến bộ trong suốt dọc dài
lịch sử bốn nghìn năm góp phần tô bồi ?
Một ý thức tô bồi quốc học không thể không gắn liền với ý
thức về những hệ giá trị cuả mỗi thời kì tiến hoá cuả văn hoá dân tộc. Thế hệ
trẻ cần được giảng cho thấy là tiền nhân chúng ta chưa bao giờ toạ hưởng văn
hoá dân tộc như một mâm cỗ thần kì. Quốc học đã phải là những vận hành, những
đấu tranh giưã những hệ giá trị cũ và mới, cấp tiến và thủ cựu ở mỗi thời kì
lịch sử. Một ví dụ rất nhỏ: nếu hôm nay, thế hệ trẻ Việt Nam được tìm hiểu về
hệ thống tư tưởng Nho Gia thì tất nhiên không thể tránh việc phải tìm hiểu về
những nhà nho kiệt xuất ở những chặng lịch sử khác nhau: Chu An, Nguyễn Trãi,
Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu... Tất cả những nhà nho ở trên dọc dài lịch sử đều
học một sách, sống và nghĩ theo cùng một hệ tư tưởng. Vậy mà sao có nhà nho
hương nguyện, và nhà nho cấp tiến ? Sự khác biệt chỉ là do tinh thần "tư
duy độc lập" cuả những sĩ phu mỗi thời. Người trí thức đúng nghiã là những
người có tinh thần phê phán, chứ không phải là những kẻ "tận tín thư"
(tin cả vào sách vở). Ngô Thì Nhậm chính là người như thế. Ông là một khuôn mặt
nhà nho lớn ở thời suy vi cuả văn hoá Đại Việt. Con người ông là hiện thân cuả
những suy nghĩ lớn vượt thời đại, mà bọn nho sĩ sử quan thiển cận không thể
hiểu được, nên đã buông lời xằng bậy. Dưạ vào những trang sách nhảm nhí như thế
để cũng lên lời chấm công phê tội một người như ông thì sao gọi là tô bồi quốc
học được ?
Đặt câu hỏi trên đây là để nhận rõ một thực trạng xã hội
hiện nay: không thể làm văn hoá thuần tuý cách lià thái độ nhận thức nhu cầu
tất yếu cuả lịch sử dân tộc là vận hành về tương lai. Cho nên, nếu trống đồng
Đông Sơn có linh thiêng thì hãy dóng lên tiếng trống thúc giục dân tộc sớm hình
thành kỉ nguyên văn hoá Việt Nam, vì đã năm trăm năm máu và nước mắt rồi. Nếu
trống đồng có khôn thiêng thì cũng cần phải hiểu cho rằng không bao giờ lịch sử
dân tộc lại quay trở lại kỉ nguyên Văn Lang đâu, dẫu cho kỉ nguyên ấy có là
thời hoàng kim cuả dân tộc từ hai ba nghìn năm trước. Cũng thế, thời hoàng kim
cuả văn hoá Đại Việt là thời kì huy hoàng kéo dài hai trăm năm. Nhưng thế kỉ
XXI sắp tới đây lại không phải là thế kỉ XI-XIII, mà lịch sử cũng không quay
trở lại ngược chiều kim đồng hồ bao giờ ! Cái còn lại cuả văn hoá Văn Lang và
Đại Việt thật ra thì vẫn còn đó: tô bồi quốc học đúng nghiã là phải vận dụng
gia sản cũ vào những hoàn cảnh đất nước mới, để góp phần hình thành những giá
trị văn hoá mới. Nhìn nhận gia sản văn hoá tổ tiên như vậy thì mới thấy thái độ
lẩn tránh sự đối đầu giưã hệ giá trị cũ và mới là một thái độ ảo tưởng. Vì thời
thế đã dẫn chúng ta đến cảnh ngộ đối đầu như thế, con người không thể giả vờ
không biết đến tình thế "khẩn trương" đó.
6 Cộng đồng Việt Nam sẽ đi về
đâu ? Trong tình hình rối nát như hiện nay, liệu cộng đồng này có sắm được vai
trò gì trong cuộc vận động văn hoá mới ? Cho đến nay, có ít nhất là ba quan
điểm rất trái ngược nhau.
(1) Quan điểm thứ nhất cho rằng cộng đồng người Việt hải ngoại trước
kia là một tập thể ô hợp, không định hướng, và nhất là thiếu lãnh đạo. Đến gần
đây, khi những làn sóng Việt kiều về thăm nước đã quét luôn cả những phần tử
chống cộng "đến tận răng" cũng dần dà lẩn lút hay công khai về thăm
cố hương, thì cộng đồng hải ngoại hầu như đã tan rã dần. Cộng đồng như thế chỉ
còn là một đám đông vô danh, và sự gắn bó giưã các cá nhân và tập thể với nhau
chủ yếu là trên cơ sở kinh tế, tiêu dùng. Hoạt động văn hoá, giáo dục ? Ý thức
yêu nước yêu dân tộc ? Khó có thể hình dung là có những loại hoạt động như thế
ở hải ngoại ! Một rừng sách báo, phim ảnh, điã hát ở hải ngoại chỉ thu gọn lại
là những món hàng tiêu thụ, để người ta giải trí như người ta thưởng thức một
bát phở ngon!
Nói cách khác, cộng đồng người Việt hải ngoại dường như đang
như một bóng mờ sắp tan loãng. Cho nên những ai còn có lòng với đất nước không
nên phí công vận động hô hào đoàn kết với những bóng ma. Những người hoạt động
dân chủ trong nước đang cần chúng ta hỗ trợ hơn.
(2) Quan điểm thứ nhì lại cho rằng cộng đồng hải ngoại là một tập hợp
những người con dân cuả đất nước vẫn không phụ rẫy đất mẹ. Và cộng đồng hải
ngoại từ hai mươi năm nay vẫn đóng góp phần cuả nó vào việc phục hưng đất nước:
số ngoại tệ khổng lồ hằng năm về tiếp cứu cho thân nhân nhưng cũng là gián tiếp
giúp đất nước tỉnh lại sau những cơn thoi thóp vì sự quản lí tồi tệ ở trong
nước. Đến nay, sau hai mươi năm tích luỹ tài nguyên quý giá là nhân tài và vật
lực, cộng đồng hải ngoại có thể sẽ còn có nhiều đóng góp phần mình vào việc xây
dựng đất nước trong tương lai.
Chính vì vai trò rất tích cực như thế, cộng đồng hải ngoại
xứng đáng có một chỗ đứng trong cộng đồng dân tộc. Cộng đồng hải ngoại phải
nhận ra sức mạnh tiềm tàng cuả mình để
nghiêm chỉnh nhận thức khả năng đóng góp cho việc thúc đẩy cho đất nước tiến
nhanh trên con đường dân chủ và phát triển.[8]
(3) Còn một quan điểm khác hẳn trên, về vấn đề cộng đồng: hãy tạm
không nên nghĩ nhiều quá về mối quan hệ giưã cộng đồng hải ngoại và đất nước.
Mối quan hệ như thế phải là mối quan hệ hai chiều. Nhưng hiện nay, dường như
chưa ai thực sự biết rõ đất nước - hay cụ thể hơn, những người trong nước- nghĩ
gì về người ở nước ngoài. Những kẻ ra đi khỏi nước có hơn gì một thứ ngón tay
thứ sáu, thậm chí những bèo bọt rác rưởi cuả dân tộc... Thôi, hãy trở về thực
tại, hãy làm cái gì để xây dựng một cộng đồng đúng nghiã là một tập thể có
nghiã lí, có bản sắc văn hoá, có đủ trình độ và tư cách để tự giới thiệu chính
mình với cộng đồng thế giới. Cộng đồng hải ngoại cho đến nay chưa hề có một tư
thế nào trước mặt thế giới cả. Mà có phải là cộng đồng này chỉ là tập hợp những
kẻ cùng đinh khố chuối cả đâu ! Có cả những nhà trí thức khoa bảng, là những sứ
giả văn hoá cuả dân tộc ở cấp thế giới. Vậy mà hình như hai mươi năm nay, tất
cả chúng ta đều là những kẻ vắng mặt trước cộng đồng thế giới. [9]
Ba cách nhìn về cộng đồng tuy là khác nhau, nhưng đã nói lên
ba khiá cạnh khác nhau cuả cộng đồng. Chúng tôi tưởng không còn cái nhìn nào
triệt để hơn là tổng hợp cả ba cách nhìn. Cộng đồng có những biểu hiện tiêu cực
( phản ảnh qua quan điểm 1) là từ những nguyên nhân rất cụ thể. Khi khắc phục
được những yếu tố đó thì mới mong nghĩ đến xây dựng cộng đồng (quan điểm 3)
tiến lên cùng nhịp cuả cộng đồng dân tộc và cộng đồng quốc tế. Có lẽ lúc đó mới
dám mong nghĩ đến những đóng góp cuả nó đối với đất nước (quan điểm 2). Vậy thì
đâu là nguyên nhân cuả tình trạng phân tán bát nháo cuả cộng đồng hải ngoại ?
Cho đến đây, chúng ta chỉ nhìn những nguyên nhân từ những xung đột văn hoá cũ
và mới. Nhưng đến đây có lẽ phải thêm một nguyên nhân rất quan trọng nhưng hình
như lại chưa được nhận diện đầy đủ và nghiêm chỉnh. Đó là bóng ma cuả "hội
chứng tị nạn" (refugee syndrome).
Hội chứng tị nạn là tập hợp những triệu chứng tâm lí thần
kinh bệnh, thường gọi là tình trặng căng thẳng thần kinh kéo dài . Đó là kết
quả cuả một chuỗi dài những thống khổ lớn, gây nên những chấn động tâm lí cùng
tột. Cơn chấn động tâm lí này hầu như tuyệt đại bộ phận dân Việt, ai cũng trải
qua: có thể là những hoang mang tột độ cuả người cán binh trong rừng mưa bom,
cuả người chính quyền miền nam trước và sau biến cố sấm sét 30.4.75; có thể là
những nhục nhằn và uất ức đau khổ vì chế độ đối xử trong các trại tù cải tạo;
có thể là tâm trạng tủi nhục, hắt hủi cuả đời sống những kẻ bên lề xã
hội....Mất mát ! Đó là nét nổi bật cuả tâm sự cuả những người bị đẩy xuống
"đáy điạ ngục". Cho đến ngày phải chia xa cùng đất nước, nơi có bao
người thân, bao nhiêu kỉ niệm vàng son... Khi đặt chân lên vùng đất lưu vong,
người tị nạn càng ý thức rõ hơn nưã những mất mát vô cùng lớn cuả mình, những
mất mát không thể đền bù.
Cho dù những thống khổ phải chịu đựng ở quê nhà, rồi trên
đường vượt biển có thể qua đi, những chấn động tâm lí vẫn để vương lại những
hội chứng tâm lí nặng nề ở những cấp độ khác nhau. Tất cả những cảnh huống
thương tâm kia sẽ công phá bản ngã từng người, có thể sẽ trở thành những vết
thương không bao giờ lành được. Sự mất mặt, mất quyền lợi, sự bị làm nhục, làm
mất phẩm cách... đã gặm nhấm tự tin cuả con người, để rồi sẽ bùng ra không kiềm
chế được khi phải bỏ đất nước ra đi.
Hội chứng tị nạn sẽ phai dần theo thời gian, nhất là khi con
người đã tạo được một chỗ đứng chân trong xã hội lưu vong. Tự tin là yếu tố chế
giải được hội chứng tị nạn. Cũng có thể là do sự hỗ trợ tinh thần cuả gia đình
bè bạn, hoặc những phương thức điều trị tâm lí (tôn giáo, nhà thương, nghệ
thuật). Nhưng có một số người phải chịu đựng rất lâu, thậm chí không thể giải
gỡ nổi hội chứng tị nạn. Những biểu hiện cuả tình trạng kéo dài "hội chứng
tị nạn" có thể là: tâm lí nuối tiếc dĩ vãng, luôn luôn lôi dĩ vãng ra đánh
bóng lại để chạy trốn cái hiện tại u buồn, kém tự hào; cũng có thể là thứ tâm
lí hoài nghi và tâm lí bất mãn với tất cả mọi thứ chung quanh. Trong lòng nhiều
người đã nhen nhúm ý muốn trả thù, để đòi bồi thường lại những mất mát, đoạ đầy
mình phải chịu vì một cuộc đổi đời.
Hội chứng tị nạn đã là nguyên nhân ẩn giấu cuả những hành vi
bạo động cuả những con người đang tìm cách đòi bồi thường cái thế giá đã bị
tước đoạt, hoặc nói chung là tất cả những mất mát to lớn trong đời. Nhưng khốn
nỗi, kẻ thủ phạm đã đày đoạ mình, đã làm nhục mình, thì lại không có mặt quanh
mình. Những người thân mến chung quanh đã trở thành những những bao cát để cho
mình đấm, cho mình dày xéo. Bạn bè mình hôm qua bỗng dưng cũng có thể bị lôi ra
tố khổ. Thay thế cho một kẻ thù vắng mặt. Trong rất nhiều trường hợp, người bạn
đường giấu mặt này đã trở thành một đồng minh đắc lực cuả hệ giá trị văn hoá
cũ, trong thành tích đập phá, huỷ hoại cộng đồng. Cho nên có tình trạng nghịch
lí là: trong cộng đồng hải ngoại, có nhiều người "chiến sĩ chống
cộng" nói năng viết lách rất hung hăng, nhưng là trong một cơn mê sảng kéo
dài.
7 Hai mươi năm qua, cộng đồng
hải ngoại không ngừng loay hoay tìm một hướng đi tới, lại thiếu những con người
giàu khả năng lãnh đạo để làm một cuộc phục hưng thế giá cuả cộng đồng hải
ngoại. Mà khi đã thiếu lãnh đạo ở ngoài thì cộng đồng này có là cái gì đâu
trước thế giới ! Khi chúng ta chỉ là một con số không vĩ đại thì đất nước có
xem chúng ta là cái gì ! Trong muôn nghìn tập thể người Việt các nơi, đang có
những cá nhân và tổ chức âm thầm học hỏi, rèn luyện mình để chuẩn bị đóng góp
phần mình cho tập thể. Người lãnh đạo thật sự -dù là cá nhân hay tập thể- phải
là người trưởng thành từ trong thực tiễn hoạt động ở đây và lúc này. Tập thể
trí thức chuyên viên cuả cái Việt Nam Cộng Hoà trước kia rất thiếu một tầm nhìn
và khả năng cuả một người ở cương vị lãnh đạo, nay lại già nua thì trông mong
nỗi gì ! Những cá nhân bạt chúng trong các ngành chuyên môn thì có thể vẫn đóng
góp phần khiêm tốn cuả mình trong các điạ hạt ấy. Nói cách khác, bầy ong vẫn
cần mẫn làm việc.
Hiện nay, có một thứ vốn rất quý mà cộng đồng hải ngoại đã
may mắn tiếp nhận được trên đường lưu vong, là được học sống dân chủ trong một xứ sở tôn trọng quyền tự do cuả con người. Đó là điều kiện căn bản để học
tiếp nhận những giá trị mới trong cuộc đời. Văn hoá dân tộc chúng ta đang trải
qua những biến động mà có nhiều người đã xem như là những cơn khủng hoảng bản
sắc dân tộc. Chúng ta còn tự do để trao truyền lưả văn hoá cho con em, chúng ta
còn những đóng góp nhỏ nhoi vào hoạt động khoa học đủ mọi ngành. Và trên hết,
nếu chúng ta còn trao truyền được ý thức văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ, chúng
ta sẽ còn nhiều cơ may góp phần tạo lực đẩy cho văn hoá dân tộc sớm định hình
kỉ nguyên "văn hoá Việt Nam" sau hơn năm trăm năm máu và nước mắt
rồi.
Tuỳ vào đảm lược cuả mình, thế hệ người Việt đang chuẩn bị
đón chào thế kỉ XXI có thể sẽ được vinh hạnh góp phần mình vào việc phục hưng
văn hoá mới cho dân tộc ở kỉ nguyên "văn hoá Việt Nam" theo cùng một
nhịp với việc xây dụng cơ sở văn hoá mới, văn hoá cuả kỉ nguyên đa nguyên cuả
cộng đồng thế giới - một thế kỉ Ánh Sáng mới chăng ? Cộng đồng người Việt ở hải
ngoại cũng thế thôi. Tuỳ đảm lược cuả mình mà cộng đồng này sẽ chỉ là một ốc
đảo lạc lõng, một ngón tay thứ sáu cuả cộng đồng dân tộc, hay sẽ là một thánh
Gióng trên hành trình xây dựng hệ giá trị văn hoá mới cho dân tộc. Để khỏi hổ
thẹn với cái "bốn nghìn năm văn hiến".
Đoàn Xuân Kiên
Tập san Hợp Lưu (USA), số 38 (th. 12/1997-01/1998), tr. 42-61.
* Xem Nguyễn Văn Trung, " Về dùng
tiếng Việt và có quan điểm Việt Nam trong việc nghiên cứu Việt Nam" trong Hợp Lưu số 36 (th. 8&9.97), tr.
5-13.
[1] Duy ý chí là thái độ xa rời thực
tiễn, chỉ hoạt động dưạ trên những nhận định chủ quan cuả người hoạt động, do
đó mà kết quả hoạt động có thể quá cao so với nhu cầu cuả thực tiễn.
[2] Chủ nghiã "hậu hiện đại"
(post-modernism) xuất hiện rải rác qua những thời điểm khác nhau, tuỳ theo từng
ngành tri thức. Ở trong bài này, chúng tôi nhìn nó ở giai đoạn đã phổ biến, tức
là vào thập niên 80.
[3] Chúng tôi nhìn lịch sử văn hoá dân
tộc theo chiều lịch sử tiến hoá thì nhận ra ba kỉ nguyên văn hoá lớn: (1) kỉ nguyên văn hoá Lạc Việt (Văn Lang) mà
đỉnh cao là văn hoá Đông sơn (với trống đồng và văn minh luá nước); (2) kỉ nguyên văn hoá Đại Việt là kết quả
cuả cuộc giao lưu với văn hoá Hán tộc, mà đỉnh cao là văn hoá Lý-Trần; (3) kỉ nguyên văn hoá Việt Nam đang trên
đường hình thành suốt từ khi bắt đầu giao lưu với văn hoá thái tây, với đủ các
trào lưu tư tưởng nối tiếp nhau nhưng đều có một sắc thái chung là duy lí, nhị
nguyên. Hậu quả cuả tình trạng này là chiến tranh (máu và nước mắt) không
ngừng. Đỉnh cao cuả văn hoa ở "kỉ nguyên Việt Nam" chưa thấy một dấu
hiệu nào là đang định hình ! Xin trở lại vấn đề này trong một dịp khác.
[4] Chúng tôi dùng từ ghép Tống Nho để phân biệt với hệ thống tư
tưởng triết học Khổng Nho. Khổng Nho
là phần tinh tuý cuả Nho Giáo khi chưa bị chế độ phong kiến Trung Hoa và các
nước Đông Á biến làm công cụ ý thức hệ bảo vệ quân quyền. Hán Cao Tổ là người
đầu tiên đã có ý muốn thống thuộc nho sĩ. Đến các vua nhà Tống thì bọn nho sĩ
đã hoàn bị việc đưa Nho học lên hàng công cụ tư tưởng để củng cố vương quyền.
Chính hệ thống tư tưởng nho gia đời Hán và đời Tống đã là nguồn triết lí chính
trị cho chế độ phong kiến tập trung. Nhìn trên bình diện văn hoá thì góp chung
Khổng Nho và Hán-Tống Nho là một sự khiên cưỡng.
[5] Trong các tác giả bàn về văn hoá Việt
Nam hiện đại, có Nguyễn Kiến Giang rất đáng chú ý. Ông vận dụng quan điểm biện
chứng duy vật để nhận diện thực trạng văn hoá dân tộc hiện nay. Tác giả giới
thuyết văn hoá hiện đại là từ Cách Mạng Tháng Tám 1945. Chúng tôi lại nghĩ rằng
văn hoá hiện đại phải đưa lùi khởi điểm về tận Đông Kinh Nghiã Thục, với đủ tầm
vóc ảnh hưởng sâu và rộng cuả nó đối với xã hội ta suốt thế kỉ XX. Chúng tôi
hiểu ĐKNT là biểu tượng cuả phong trào duy tân vang dội khắp ba miền đất nước.
Những thủ lĩnh cuả phong trào đã trở thành biểu tượng cuả một thế hệ canh tân
đất nước về mọi mặt, trong đó văn hoá là điạ bàn chủ đạo.
Khi điểm lại các thành phần văn hoá
cuả dân tộc Việt Nam trong giai đoạn mà ông cho là khủng hoảng hiện nay, ông nhận ra ba thành phần: truyền thống, canh
tân và phục hưng, hãnh tiến. Thiết nghĩ rằng tác giả nhìn giai đoạn khủng hoảng
quá ngắn hạn, và quy chiếu vào sự khủng hoảng cuả hệ văn hoá vô sản trong nước.
Khủng hoảng sẽ trở nên sâu sắc hơn, nếu tác giả mở rộng ra để bao trùm các hệ
tư tưởng nhị nguyên đang đấu tranh với nhau trên điạ bàn đất nước. Nhưng tất cả
những luận điểm về khủng hoảng chỉ là do vị trí đứng cuả tác giả mà thôi. Chúng
tôi thì nghĩ là đó là một thời kì chuyển tiếp cần thiết để bước về phiá cái
mới. Xem: Nguyễn Kiến Giang, "Nhìn nhận thực trạng văn hoá Việt Nam hiện
nay". Hợp Lưu số 11 (th.
6&7.1993), tr. 5-28.
[6] Hai cách nói ở đây không giống nhau,
và do đó cũng khác nội dung. Cách nói "hoà hợp hoà giải dân tộc" ra
đời vào những năm cuối cuả Việt Nam Cộng Hoà, để chỉ một lực lượng chính trị
thứ ba. Lực lượng chính trị thứ ba này thật ra chưa phải là một phong trào quần
chúng thực sự, mà chỉ là công cụ cuả cả hai lực lượng chính trị chính cuả miền
Nam lúc đó. Ngược lại, cách nói "hoà giải-hoà hợp dân tộc" là một
cách nói có nội dung khác hẳn, ra đời trong một hoàn cảnh chính trị khác hẳn.
Phong trào vận động dân chủ đa nguyên tại hải ngoại chủ trương rằng hoà giải là điều kiện tiên quyết để giải
giới thái độ bạo động, trước khi tiến đến hoà
hợp dân tộc, chấm dứt một thời kì bi kịch cuả dân tộc. Đây là một thị kiến
có tính cách mạng, mà nguồn gốc sâu xa là tư tưởng từ bi cuả đạo Phật, hay tư
tưởng bác ái cuả Ki-Tô.
[7] Chúng tôi không nhắc đến ở đây những
thủ đoạn bất chính cuả những cá nhân hay tổ chức trong nước hay hải ngoại nhằm
triệt hạ "đối thủ" bằng hình thức bạo động: từ gậy gộc, lựu đan, đến
những bài báo có dụng ý nhục mạ người khác ý kiến với mình. Ứng xử với nhau
bằng hành vi côn đồ là biểu hiện cuả nếp sống thiếu văn hoá, mà chỉ có giáo dục
dân trí mới có thể giải quyết tận gốc.
[8] Xem Nguyễn Gia Kiểng, “Vài suy nghĩ về cộng đồng người Việt hải
ngoại”. Thông Luận 104 (th. 5.97), tr. 10-12.
[9] Xem Nguyễn Văn Trung, " Về dùng
tiếng Việt và có quan điểm Việt Nam trong việc nghiên cứu Việt Nam" trong Hợp Lưu số 36 (th. 8&9.97), tr.
5-13.
No comments:
Post a Comment