Wednesday 20 September 2017


Chữ i và y
trong chính tả tiếng Việt

Ðoàn Xuân Kiên





Chính tả tiếng Việt ở cuối thế kỉ XX đang còn một số vấn đề cần giải quyết nhưng lại bị bỏ lửng quá lâu. Công luận thỉnh thoảng vẫn thường lên tiếng yêu cầu đặt lại vấn đề sửa đổi cách viết sao cho hợp lí, đúng chính tả truyền thống. Một trong số những vấn đề đã tốn hao khá nhiều giấy mực là vấn đề chính tả của chữ i y. Ngược lại quá khứ có thể thấy là vấn đề này đã được đặt ra từ rất sớm, ít ra là từ thời Hội nghị Khảo cứu Viễn đông năm 1902. Tại hội nghị này, một Uỷ ban xét về việc sửa đổi chữ quốc ngữ đã lên một danh sách các đề nghị sửa đổi đệ trình lên phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Một trong những đề nghị của Uỷ ban này là: nên trở lại nguyên tắc chính tả do Alexandre de Rhodes đưa ra, nghĩa là không nên tuỳ tiện đổi i  thành y trong một số trường hợp. Chẳng hạn theo nguyên tắc của de Rhodes thì lối viết ky , ly , my không có lí do chính đáng so với lối viết mi , ki , li. Từ đó đến nay đã tròn một thế kỉ. Cũng kể từ De Rhodes đến những thập niên đầu thế kỉ XX, vấn đề này càng trở nên rối loạn vì hiện tượng tuỳ tiện trên sách báo và trong giáo dục nhà trường. Ðã có nhiều bậc thức giả đặt vấn đề chính tả này ra để lưu ý giới hữu trách (chính quyền, nhà trường và giới truyền thông) về một vấn đề nhỏ nhưng phức tạp. Ðáng tiếc là suốt mấy mươi năm nay, sự đáp ứng trong học giới và ngoài công luận thường rất dè dặt, lơ là.

Trong số những điều bất hợp lí về chính tả tiếng Việt, có những điều đã đi vào tập quán ngôn ngữ: chẳng hạn, chúng ta có bàibày, khi nói ra chỉ khác nhau ở âm chính a đọc bình thường, và ă là thể ngắn cuả a. Thế nhưng khi viết, thể ngắn cuả âm chính đã chuyển trách nhiệm về bán âm cuối i y để phân biệt a ngắn và a dài. Tuy nhiên, cũng có những bất nhất tạo ra do sự nhầm lẫn hay bất cẩn cuả một số người soạn từ điển, sách báo để lại, dẫn đến việc sử dụng tuỳ tiện của công chúng.

Trong bài này, chúng tôi xin nối điêu các tác giả đi trước mà xem xét lại vấn đề chính tả chữ iy (1). Nhân đó chúng tôi đề nghị một cách giải quyết cho vấn đề dạy chính tả này do chúng tôi áp dụng nhất quán trong khi soạn tài liệu dạy tiếng Việt trong bộ sách giáo khoa Học Kĩ Ðọc Ðúng dành cho trẻ mới bắt đầu học đọc, do nhà Zwijsen ấn hành tại Hoà Lan (2). Chúng tôi mạnh dạn đưa ra mấy nhận định về nguyên nhân cuả hiện tượng bất nhất trong chính tả chữ i y như ta thấy hiện nay. Và sau cùng là khôi phục lại những quy tắc mà chính tả chữ i y mà tiếng Việt hiện đại chấp nhận.
 
CÁCH VIẾT I  VÀ Y  TRƯỚC NAY

Trước hết, thiết tưởng cũng cần nêu lên đây một nét chính của nguyên tắc chính tả tiếng Việt là nguyên tắc kí âm, nghĩa là phát âm làm sao thì viết ra như thế, và mỗi âm được biểu thị bằng một kí hiệu (chữ cái). Lí thuyết thì như thế nhưng trên thực tế thì chính tả tiếng Việt hiện nay vẫn có những điểm không sát hợp với phát âm. Trong số những hiện tượng chữ viết đi lạc khỏi hệ thống chính tả có trường hợp chữ iy. Xưa nay, hai chữ cái này dùng để ghi lại cùng một nguyên âm / i /: , luỵ. Ngoài ra, hai chữ cái này cũng dùng để ghi hai âm cuối, tức là một âm phụ để khép âm tiết lại. Âm cuối này viết là i hay y là tuỳ theo nguyên âm trước đó ngắn hay dài: sau nguyên âm dài thì âm cuối này viết là i (chẳng hạn: hai, phơi), và sau nguyên âm ngắn sẽ viết là y (chẳng hạn: may, cây ). Dưới đây chúng ta sẽ duyệt lại cách viết của i y trong ba vai trò: âm chính, âm cuối của âm chính dài và của âm chính ngắn.

Chúng tôi đã xem xét lại chính tả cuả chữ iy, và ghi nhận những trường hợp sau đây:
  1. si/sy - li/ly - kí/ký: chữ i y đặt ở sau phụ âm đầu, làm phần âm chính cuả âm tiết
  2. sinh - lính - kính -xỉu: chỉ dùng chữ i trong phần chính cuả âm tiết mà không bao giờ dùng chữ y
  3. hia - bià - điã - hiền - biết - giếng: chữ i đi kèm với nguyên âm ê để làm thành tổ hợp âm chính cuả âm tiết
  4. yêu - yến - yểng: tương tự như trường hợp 3 trên đây, nhưng chỉ dùng chữ y
  5. im - ỉu - ý - y - ỷ/ỉ: chữ i y đều đứng ở đầu âm tiết
  6. quí/quýt - huyện - thuý - nguy: chữ i y trong các tổ hợp nguyên âm chúm môi (nghiã là khi viết thì có chữ u đặt trước nguyên âm chính)
  7. mai - cúi - mây - cay - cai: chữ i y là hai âm cuối đi theo sau một nguyên âm để khép âm tiết lại.
Trong số những trường hợp trên đây, chỉ có hai trường hợp 2 và 3 là dứt khoát, không có tình hình nước đôi là dùng lẫn cả iy; ngoại giả, năm trường hợp còn lại có tình trạng hai chữ i y dùng thông lẫn nhau.

Xem xét kĩ thì hiện tượng iy không phải là có thể dùng tuỳ tiện, không theo nguyên tắc nào. Trong năm trường hợp còn lại, có thể nhận thấy ngay là chúng ta có thể tách được hai nhóm 4 và 5, vì chúng có những nét sóng đôi với hai nhóm 2 và 3: tất cả đều là thành phần âm chính cuả âm tiết. Chỉ có điểm khác biệt duy nhất: một đằng i y đứng ở đầu âm tiết (nhóm 4 và 5), một đằng thì có phụ âm đầu đi trước (nhóm 2 và 3). Dưạ trên nét khu biệt này mà chúng tôi quy bốn nhóm vào một loại, phân tích bậc hai để nhận ra quy tắc cuả chúng. Cuối cùng chỉ còn lại nhóm 1 là nhóm rắc rối nhất trong khi viết chính tả hai chữ i y.

Duyệt lại vấn đề, mục đích cuả chúng tôi chỉ là đề nghị các giới liên quan tạo điều kiện để giảm thiểu những bất nhất, rắc rối cho những ai học và dạy tiếng Việt. Từ đó, chúng tôi muốn góp phần đặt lại vấn đề chính tả này sao cho "hợp lí" hơn. Bài viết có thể chỉ cần một đoạn ghi năm quy tắc (bảng 3) là đủ. Nhưng chúng tôi muốn tìm hiểu thêm: tại sao có hiện tượng bất nhất trong lối viết chính tả chữ i y như chúng ta thấy hiện nay. Ngược lại lịch sử cuả vấn đề, chúng tôi nhận thấy là chính tả chữ i y lộn xộn không phải là vì thiếu nguyên tắc chính tả, nhưng là do sự bất chấp nguyên tắc cuả những người biên soạn từ điển từ De Rhodes trở xuống.

Căn cứ vào một số văn bản rải rác từ thế kỉ XVII về sau này, có thể nói là lối viết chữ iy đã trải qua một số những thay đổi kể từ khi chữ quốc ngữ ra đời đến nay đã hơn ba trăm năm.
 
1. Thế kỉ XVII:

Năm 1651 đánh dấu sự ra đời của bộ từ điển Dictionarium Annamiticum-Lusitanum et Latinum (thường gọi là Từ điển Việt-Bồ-La) của Alexandre de Rhodes. Bộ từ điển này có in kèm một phần "Báo Cáo Vắn Tắt Về Tiếng An Nam Hay Ðông Kinh". Ðây chính là bản văn về ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ nay còn giữ được. Trong mục viết về chữ i, tác giả viết: "I, chúng tôi chỉ sử dụng i nguyên âm, bởi vì tất cả công dụng của i phụ âm được thực hiện tốt hơn bằng chữ g , vả lại i nguyên âm sử dụng như chúng ta; tuy nhiên, để tránh sự lẫn lộn, chúng tôi chỉ dùng i nguyên âm ở giữa và cuối tiếng: ở giữa tiếng, thí dụ biết, scire (hiểu biết), và ở cuối tiếng, thí dụ , cucurbita Indica (quả bí); nhưng cần ghi nhận rằng chúng tôi sẽ dùng y ở cuối từ khi nào nó làm thành nhị trùng âm mà vẫn tách biệt, thí dụ éy, ille (cái ấy), còn khi chúng tôi viết với i nguyên âm thì đó là dấu hiệu vẫn không tách biệt, thí dụ ai, quis (ai); chúng tôi không dùng hai chấm ở trên các nguyên âm để tránh sự gia tăng quá nhiều dấu hiệu; cần lưu ý một lần cho xong là i ở cuối từ sau một nguyên âm khác thì không làm thành một vần khác tách biệt, còn khi viết với y Hi lạp thì bấy giờ vẫn bị tách biệt, thí dụ cai, superior (cao hơn, bề trên), cây, arbor (cây cối). Cũng ở đầu tiếng, nhất là trước một nguyên âm khác, thì chúng tôi dùng y Hi lạp, nhưng đừng ai cho đó là phụ âm, thí dụ yêó, debilis (yếu đuối), yả, cacare (ỉa, phóng uế)." (3)

Ðại ý của đoạn văn trên là đưa ra bốn nguyên tắc viết chữ iy mà chúng tôi tóm thành nguyên tắc (a), (b), (c), (d) ghi trong Bảng 1 dưới đây:

(a) chữ i dùng để ghi nguyên âm của âm tiết, có thể là nguyên âm đơn /i/ hay nguyên âm đôi / ie /: , biết;
(b) khi là bán âm thì i được viết sau nguyên âm thường: cai;
(c) chữ cái y dùng để ghi nguyên âm / i / đứng đầu âm tiết: yếu , yả (iả);
      (d) chữ y bán âm đi sau nguyên âm ngắn: cây, ấy.

Bảng 1
 
Các từ có âm / i / trong phần từ điển đã được viết theo nguyên tắc chính tả này. Chúng tôi sẽ trích dẫn các mục từ trong bộ từ điển, xếp lại theo thứ tự bốn nguyên tắc vừa nêu, làm thí dụ dẫn chứng:

(a) i (áo), í, ít, bí, gì, kinh kì, lí, gia giảm, chiêm, chiếc, biếu, huỷ (báng), huỷ (cưới), huyện=huiẹn, uy nghi quỉ, quí, quì, huiẹt (huyệt), quièn (quyền), quiẻn (quyển) sách;
(b) bói, xơi, ngôi, nuôi, ủi, uoi (voi);
(c) yếm, yểm, yên, yén (yến sào), yêu, yếu, yểu, (già), (gì), jở (giở)
(d) rày, rảy, thay, nấy, đứt dey (dây), lêy, lếy

Nếu nhận những nguyên tắc trên đây do A. de Rhodes đưa ra là mẫu mực của thời kì này, thì cũng cần ghi nhận hiện tượng là có thể có những lối viết khác cùng tồn tại nhưng đã không được đa số dùng theo. Chẳng hạn, nguyên tắc (a) trong văn kiện của Gaspar d'Amaral (1632) có chỗ viết hơi khác: nghyã (nghĩa) an xã, thuyèn thuỉ (thuyền thuỷ); nguyên tắc (b) trong văn bản của D'Amaral nói trên và của Văn Tín, Bento Thiện (1659) được viết dưới dạng: blờy (trời), mlờy (lời) lại (lạy), tôy (tôi), mườy hay (mười hai), lạy (lại)... Nhóm (c) chủ yếu là để ghi mục từ i/y. Nhưng ngoài một vài từ viết với i là âm chính của âm tiết như đã thấy một số từ ghi ở nhóm (a) trên kia, tất cả các từ có tổ hợp /ie/ đều được viết với y ở trước nguyên âm ê, ngoại trừ một số từ được tác giả viết với chữ j: (già), (gì), jở (giở). Điều này cho thấy còn có sự phân vân giữa hai đồ vị để chỉ một âm vị mà de Rhodes cho là bán âm /y/. (4)

Từ điển Việt-Bồ La của de Rhodes có lẽ đã nhanh chóng trở thành sách tham khảo của những người muốn dùng chữ quốc ngữ thời ấy, và những quy tắc chính tả do ông thiết định sớm trở thành chuẩn mực cho mọi người. Tuy vậy, có một điểm không nhất quán trong nguyên tắc (a) đối với lối viết âm / i / có chúm môi: uiê (huiẹn) = uyê (huyện), và ui (quỉ) = uy (tuy).

Tóm lại, tình hình chính tả của iy ở thế kỉ XVII không ổn định trong cả hai trường hợp: trong vai trò nguyên âm làm âm chính (nhóm a), có sự dùng thông giữa iy trong nhiều trường hợp, dù có chúm môi hay không. Trong vai trò âm cuối cũng thế, sự phân bổ iy không dứt khoát: có khi đứng sau nguyên âm dài thì viết với y (blờy, lạy (lại), mườy). Sự thiếu nhất quán như thế đã xuất hiện từ khi mới hình thành hệ thống chữ quốc ngữ.

2. Thế kỉ XVIII:

Hiện nay tài liệu văn bản chữ quốc ngữ của thế kỉ XVIII có thể tìm trong các bản thảo của Philiphê Bỉnh và bộ từ điển Dictionarium Anamatico-Latinum của cố Pigneaux de Béhaine soạn trong thời gian 1772-1773 (5). Sau đây là một số từ chúng tôi nhặt ra từ các mục từ trong từ điển Pigneaux de Béhaine và cũng sắp xếp vào bốn nhóm theo bảng 1 trên kia:

Từ điển Pigneaux de Béhaine (1773)
(a) chữ i dùng để ghi nguyên âm của âm tiết, có thể là nguyên âm đơn /i/ hay nguyên âm đôi / ie /: bí, gì, kinh kì, li, lí, lì, thì, thỉ, chiêm, chiếc, biếu, liếc, liềm, tiết, huỷ (báng), huỷ (cưới), huyện, luỵ (nhỏ), luỹ, luyện, nguy, nguyên, nguyệt, quỉ, quí, quì, huyệt, huyết, huinh, huình, quyền, quyển, quyến, quyết, qui, quí, quít, quì (lạy), quỉ, quyên, quyển (sách), uy, uỷ, uinh 

(b) khi là âm cuối thì i được viết sau nguyên âm thường: ai, ái, bói, chòi, chồi, (khoai) lùi, nôi, nuôi, ngoi, ngoái, ngôi, người, quai, quái, sai, ui, ủi, vai, vải, voi, xài

(c) chữ cái y dùng để ghi nguyên âm / i / đứng đầu âm tiết: y (áo), ý, ỷ (thế), (trời) ym, yn (sách), ỉa, ích, ít, yếm, yểm, yên, yêu, yếu, yểu, ỷnh, ỷu

(d) chữ y âm cuối đi sau nguyên âm ngắn: áy náy, ấy, ngoáy, quay, quây, rày, rảy, say, thay, váy, vậy, xay, xảy

Có thể nhận thấy ngay là nhóm (b) và (d) rất ổn định: các âm chính dài đều viết với i (ai, chòi, lùi, ngoái, quai, sai, ui, voi, xài), trong khi các âm chính có nguyên âm ngắn đều viết với y (áy náy, ngoáy, quây, rày, say, thay, vậy, xảy).
Một trang bản thảo của Philiphê Bỉnh (1793) (5)

Hai nhóm (a) và (c) thì tình hình có khác. Trong nhóm (a), khi chữ i dùng để ghi âm chính của âm tiết, có thể là nguyên âm đơn / i / hay nguyên âm đôi / ie /, có tình hình nước đôi: nếu chỉ là nguyên âm đơn /i/ thì nhất loạt viết i (bí, quì); khi i kết hợp với nguyên âm ê thì viết (biếc, biếu, chiêm, chiếc, liếc, liềm, tiết), nếu âm tiết có chúm môi thì nhất loạt viết uyê (huyện, luyện, nguyên, nguyệt, huyết, quyền, quyển, quyết); tuy vậy, khi nguyên âm / i / là âm chính có chúm môi thì lại có tình hình nước đôi: khi thì viết với y (huỷ, uy), lúc lại viết với i (quì, quít, huình).

Nhóm (b) cũng có tình hình tương tự: chữ iy đứng ở đầu một từ cũng không nhất quán: khi thì viết i (ỉa, ích, ít), khi thì viết với y (y (áo), ý, ỷ, ym, yn).

Xem thế thì sang thế kỉ XVIII, viết iy đã tương đối ổn định khi chúng là những âm cuối kết hợp sau âm chính dài hay ngắn, khá phân minh. Chỉ khi là nguyên âm làm âm chính trong một âm tiết thì có những lẫn lộn qua lại, thiếu nhất quán.

3. Thế kỉ XIX:

Tài liệu chủ yếu để xem xét lối viết iy ở thế kỉ XIX là bộ từ điển Dictionarium Anamitico-Latinum (Nam Việt Dương Hợp Tự Vị) của A. J. L Taberd, in tại Serampore năm 1838 (6). Ðại để, bộ từ điển này vẫn theo bốn nguyên tắc chính tả nêu ở trên. Dưới đây là một số từ rút ra từ bộ từ điển Taberd:

(a) ích, im, in, ỉnh, ít, ỉu, hi, kị, khi, lí = lý, mĩ, vị, chịu, điều, huyền, quí, quít, quyên, quyết
(b) củi, nói, ngợi, trái,
(c) ý, ỷ (thế), yả (ỉa), yếm, (d) bay, đáy, gậy, khảy, mày, vấy

Ðến Taberd thì khuynh hướng dễ dãi giữa iy nguyên âm đã tăng thêm: y của nguyên tắc (c) nay thay cho i khi đứng một mình [thuộc nguyên tắc (a) của thế kỉ XVII ], và thay thế i trong một số trường hợp khác ở giữa âm tiết mà không có lí do. Nguyên tắc (a) thời de Rhodes nay đã bị xáo trộn.

Sự dùng lẫn lộn giữa iy càng tăng dần về sau. Bộ Dictionnaire Annamite Francais của Legrand de la Liraye (1874) theo lối viết iy như Taberd; hơn thế, ông còn cho im =ym, kỳ dị, kỷ tị, tự kỉ, kĩ càng, bệnh lị, lý lẽ... Có thể nói là sự hỗn loạn bắt đầu từ sự phá vỡ tính nhất quán của nguyên tắc (a) trước tiên. Khuynh hướng đó kéo dài về sau, qua Theurel khi soạn Dictionarium Anamatico-Latinum  (Tự Vị An Nam- La Tinh) (Ninh Phú, 1877). Tác giả này đã theo đúng những lối viết không nhất quán tìm thấy ở hai bộ Taberd và de la Liraye.

Khi Huình Tịnh Của xuất bản hai tập Ðại Nam Quấc Âm Tự Vị (1895-96) (7), ông đã kế thừa sự phá vỡ nguyên tắc (a), cho nên ông có huỷ nhưng lại có huịch, huiên, huyện, huình, kí = ký, kì = kỳ, li =ly, lý, khuia, khuinh, khuyết, quiên = quyên, quiển = quyển, quít, quyết.

Vài năm sau, J. F. M Génibrel soạn Dictionnaire Annamite-Francais (Saigon,1898) (8) thì nguyên tắc (a) và (c) đã trở nên khó phân biệt so với thời de Rhodes. Trang 330-331 cho thấy rõ sự nhập nhằng này khi ông cho iy vừa có thể đứng đầu âm tiết vừa đứng giữa: ích, ịch, iếp (cá muối), iệp=yểm, im=ym, quí, chuyền, khuyến. Hoặc giả, mục từ K gồm toàn i nhưng đến mục L thì có cả i lẫn y: lì, lị, li=ly, lí=lý. Các mục từ khác cũng thế, không có sự phân định nào rõ rệt giữa iy như ở nguyên tắc (a) thời de Rhodes: huyên = huiên, huy, huích, khuy, khuia, khuinh=khuynh, nguích, nguít, nguỵ, nguyên, quình, quyên, quyết...

Những trích dẫn ở cuối đoạn trên cho thấy có sự chập lẫn cách dùng giữa iy trong các mục từ H, KH khi viết các âm chúm môi ui=uyuiê=uyê, nhưng lại không có tình trạng như thế ở các mục Q và T. Một điểm đáng chú ý nữa là âm / i / chúm môi kèm theo âm cuối / nh / thì chỉ có một từ viết với y: khuynh, ngoại giả chỉ có huinh, quình. Những trường hợp khác thì dùng ui=uy: huy, khuy, quít,huích, huyên=huiên, tuỳ

Từ những bất nhất như thế của nhà làm từ điển -mà hầu hết là những người phương tây có thể có trình độ rất cao về ngữ âm học- đến thói quen tuỳ tiện của người sử dụng ngôn ngữ chỉ là một bước ngắn. Cho nên đến khi chữ quốc ngữ chính thức dùng làm thứ chữ viết chính thức trên cả nước sau 1917 thì hầu như các sách báo đều công nhiên chấp nhận tình trạng nước đôi của hệ thống chính tả chữ quốc ngữ, trong đó nổi cộm là lối viết chữ iy.
 
4. Thế kỉ XX:

Trước tiên là chính tả trong hai bộ từ điển có uy tín hàng đầu, đã có ảnh hưởng lớn đối với chính tả tiếng Việt hiện đại: bộ Việt Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức (1931) (9) và Hán Việt Từ Ðiển của Ðào Duy Anh (1932) (10). 
Bộ từ điển lớn: Viêt Nam Tự Điển (1931)

Khi biên soạn Hán Việt Từ Ðiển, Ðào Duy Anh tỏ ra rất có ý thức tìm đặt "tiêu chuẩn và căn cứ cho quốc văn", nghĩa là có cả tiêu chuẩn chính tả cho nó. Về mặt chính tả, tác giả đã áp dụng bốn nguyên tắc cho iy ra sao? Có thể nói là ông theo đúng các lối viết theo nguyên tắc (b), (c) và (d) (bảng 1) như trước kia. Riêng với nguyên tắc (a) thì có thể rút ra một số quy tắc mà ông đề ra rất nhất quán: y theo sau các âm đầu / h /, / k /, / l /, /m/, / t / và khi có chúm môi: hy, kỷ, lý, mỹ, tỵ, huy, huyễn, luyến, nguyệt... Trừ một ngoại lệ: quỉ. Quy tắc chính tả này sẽ có ảnh hưởng rất mạnh về sau này, bởi vì số lượng từ khởi đầu với h, k, l, m, t và những từ có / i / chúm môi chiếm khối lượng khá lớn.

Bộ Việt Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức đã không theo các quy tắc chính tả trong Hán Việt Từ Ðiển của Ðào Duy Anh. Mặc dù ra cùng thời, bộ Khai Trí Tiến Ðức đi con đường khác hẳn. Các tác giả ra công điển chế khá nhiều về bốn nguyên tắc chính tả đặt ra từ thời de Rhodes. Nguyên tắc (a) đã được áp dụng chặt chẽ với i, trừ một số trường hợp: trước hết là với âm đầu / k / và không có âm phụ cuối, đều nhất loạt viết với y: ky, ký, kỳ, kỷ, kỹ, kỵ. (tr. 268-269). Khi đưa các mục từ này với lối viết như thế, các soạn giả không cho biết lí do tại sao sáu từ này lại có lối viết như thế, bởi vì mục từ L sau đó đều viết với i: li, lí, lì, lị,  (tr. 304-305). Sau nữa là âm / i / chúm môi đều viết với uy: huy, huỳnh, khuynh, nguýt, quỳnh. Chỉ có một ngoại lệ là i khi viết với qu: quí, quít. Nguyên tắc (c) của de Rhodes nay đã tỏ ra không còn xác đáng nữa, vì cả iy đều đứng đầu âm tiết: ỉa, ích, ỉm, ỉu (tr. 257), y, ỵ, ỳ, yêu, yểu (258-260). Nguyên tắc (b) và (d) thì vẫn nhất quán theo nguyên tắc đã ổn định từ thế kỉ XVIII, mà bộ từ vị Pigneaux de Béhaine là tiêu biểu.

Nhìn chung, nguyên tắc chính tả của iy trong bộ tự điển Khai Trí Tiến Ðức khá nhất quán. Có thể nói là bộ tự điển này đã giữ sát nguyên tắc chính tả (a), (b) và (d) đối với trường hợp iy. Số lượng các từ ra ngoài nguyên tắc không nhiều nếu so với các bộ từ điển soạn ở thế kỉ trước. Tuy thế, một vài sai biệt nhỏ như ở mục từ K sẽ vẫn tạo điều kiện cho những kẽ hở lớn về nguyên tắc về sau này. Bộ Việt Nam Tự ÐiểnHán Việt Từ Ðiển là hai bộ từ điển giá trị, được công luận dùng nhiều; một dạo đã được bộ giáo dục miền nam công khai chỉ thị nhà trường dùng làm từ điển tiêu chuẩn để dạy chính tả. Do vậy ảnh hưởng của chúng sẽ rất sâu rộng đối với sự phân tán quan điểm về chính tả tiếng Việt nửa sau thế kỉ XX.

Tiếp nối khuynh hướng muốn chỉnh đốn chính tả, Gustave Hue ấn hành bộ Dictionnaire Annamite-Chinois-Français  (Tự điển Việt-Hoa-Pháp) (1937) (11). Lời tựa sách có đề cập vài nét về nguyên tắc chính tả về chữ iy như sau: "Hai chữ yi hình như chỉ một âm, nửa nguyên âm hay nguyên âm tuỳ trường hợp và việc dùng hai chữ này tách biệt thì không có lí cớ nghiêm chỉnh. Do đó, để duy trì truyền thống thì chúng tôi giữ chính tả cổ xưa." Phần từ điển cho thấy rõ tác giả giữ sát nguyên tắc (a) khi viết i ở cuối âm tiết: hi, ki, li, mĩ, quí, tị. Chính tả "truyền thống, cổ xưa" nhắc đến trong lời tựa là nói về những nguyên tắc đã đề ra từ thế kỉ XVII. Ðiều đáng nói ở đây là xu thế muốn điển chế lại những hiện tượng bất nhất gây ra trong thế kỉ trước. Ở điểm này, Gustave Hue gặp gỡ quan điểm của Hội Khai Trí Tiến Ðức.

Sau 1954, hai miền Nam Bắc đều có những công trình từ điển mới, có những hoạt động nhằm tiến đến chính sách về ngôn ngữ nói chung và chính tả nói riêng. Do vậy mà có những Hội Nghị Thống Nhất Ngôn Ngữ tại Sài Gòn (1956) và Hội Nghị Cải Tiến Chữ Quốc Ngữ tại Hà Nội (1959). Cả hai hội nghị ở hai đầu đất nước đều lên những danh sách đề nghị sửa đổi chính tả. Những đề nghị sửa đổi ở cả hai miền thật ra cũng không vượt xa hơn những đề nghị của Uỷ Ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ (1902) (12) về tính cách tiên phong của chúng, mà chỉ là những thôi thúc hợp lẽ của thời đại mà thôi. Nhưng tất cả đều chỉ là những bản đề nghị không được đưa ra công luận tìm hiểu và bàn luận; song song đó, các đề nghị sửa đổi cũng không nhận được sự hỗ trợ của giới cầm quyền. Tất cả mọi đề nghị sửa đổi đều bị đình hoãn, lấy lí do là vì tình hình chưa thuận tiện (!), nên chóng rơi vào quên lãng.

Có vài công trình nghiên cứu ở hai miền có liên quan trực tiếp đến vấn đề chính tả, nổi bật là các bộ Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị của Lê Ngọc Trụ (Sài Gòn, 1959) (13), Từ Ðiển Chính Tả Phổ Thông của Viện Văn Học (Hà Nội, 1963). Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị giữ các nguyên tắc chính tả (b) và (d) (bảng 1) khi iy là âm cuối của âm tiết. Nhưng ông bất nhất trong nguyên tắc (a) khi vừa dùng i lại vừa dùng y là nguyên âm: ỉ, dĩ, lỉ, lĩ, mĩ, nỉ, phỉ, sĩ, tỉ, tị, vĩ, xỉ, xì -- ỷ, kỷ, lý, mỹ, tỵ. Có thể nói là về mặt chính tả chữ iy thì Lê Ngọc Trụ không phân minh nên đã tự mâu thuẫn với chính mình: cùng một khuôn âm mà ông viết hai cách khác nhau: lý, vĩ ; thậm chí cùng một chữ hán việt chỉ cái mũi, ông viết tỵ (tr. V) và tị (tr. XIX). Tác giả cũng lúng túng khi dùng nguyên tắc (c), nên ông vừa có lại vừa có . Chính tả của iy trong quyển tự vị này là một bước lùi so với Việt Nam Tự Ðiển.
Một trang sách in của Trương Văn Chình
& Nguyễn Hiến Lê (1963)

Trong vòng hai mươi năm chia cắt, hai miền Nam Bắc đều có nhiều từ điển mới ra. Tuy nhiên, không có bộ nào được soạn ra theo một phương pháp chặt chẽ về cách chọn mục từ, chọn giải nghĩa, và phương pháp chính tả. Chỉ riêng về phương pháp làm từ điển thôi đã cho thấy hiện tượng dẫm chân tại chỗ nếu không nói là những bước lùi so với bộ từ điển Khai Trí Tiến Ðức. Ðối với cách viết iy thì lại càng bất nhất. Nói cho đúng thì riêng trong nam, thời gian này, cũng đã có những cố gắng bứt phá thói quen tuỳ tiện về chính tả. Những nỗ lực này bắt đầu tại một số giảng đường đại học, một số nhà soạn sách giáo khoa có ý thức ngôn ngữ, và một số nhà văn hoá và báo chí có quan tâm đến chính tả tiếng Việt. Trong số các học giả có ý thức kiên trì về vấn đề chính tả ở trong nam có Hoàng Xuân Hãn, Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê, và Trần Ngọc Ninh (14). Các vị đã làm một cố gắng can đảm là dứt khoát khôi phục nguyên tắc (a) cho chính tả iy trong chừng mức mà chính tả tiếng Việt hiện đại chuẩn nhận. Trên các trang sách của các tác giả này không hề thấy sự lẫn lộn thường gặp lúc bấy giờ. Theo sự tìm tòi chưa đầy đủ của chúng tôi thì bốn học giả nêu trên cũng chưa hề minh nhiên bàn về quan điểm chính tả của các vị.

Trên báo chí thì chỉ có kí giả Nguyễn Hữu Ngư là triệt để hơn cả: ông dứt khoát bỏ nguyên tắc (c) mà xem i ở đầu hay ở giữa âm tiết đều có giá trị ngang nhau; đối với nguyên tắc (a) cũng thế, ông xem âm i là kí hiệu duy nhất, dù chúm môi hay không. Nguyên lối viết bút hiệu đã thể hiện rõ quan điểm chính tả của ông về vấn đề này: Nguiễn Ngu Í (15). Ông là một trường hợp duy nhất trong làng báo Việt Nam trước nay đã làm được việc như thế. Tiếc thay, những cố gắng của ông không đủ để tạo nên một phong trào lớn rộng nếu không nói là ít nhiều còn bị dư luận hẹp hòi cho là lập dị.

Sau 1975, một công trình làm từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn Ngữ chủ quản (16) đã tạo một bước tiến rõ rệt về các mặt của phương pháp từ điển ngôn ngữ: số lượng các mục từ và các từ và ngữ phái sinh, cách định nghĩa, chú thích, thí dụ. Về mặt chính tả thì ban chủ biên nêu rõ là họ theo đúng các Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt trong các sách giáo khoa, được ban hành theo Quyết định số 240/QÐ Ngày 5.3.1984 của Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục. Nguyên âm i cuối âm tiết được viết thống nhất bằng -I (viết hi, ki, li, mi, ti, thay cho hy, ky, ly, my, ty), trừ -uy (/ -wi /) vẫn viết -uy (luy, tuy...) để giữ sự thống nhất với với uyên, uyết, uyt. Trong tình trạng chính tả tiếng Việt hiện nay thì đây là một bước cải tiến hợp lí, nên tránh được tối đa những bất nhất về phương pháp chính tả. Vì đây chính là nguyên tắc (a) trong chính tả của chữ iy mà đã từ quá lâu phải chịu những xáo trộn do ảnh hưởng của những pho từ điển soạn rải rác từ de Rhodes trở đi.

Tóm lại, chính tả của iy đã trải qua tình trạng bất nhất suốt một thời kì dài kể từ de Rhodes về sau. Mặc dù đã có nhiều đề nghị sửa đổi từ 1902 đến nay, tình trạng vẫn không ngã ngũ.
 
TẠI SAO CÓ TÌNH TRẠNG BẤT NHẤT VỀ CHÍNH TẢ CỦA I VÀ Y?

Chính tả của iy không được nhất quán vì nhiều lí do xuất phát từ cả hai phía: người sử dụng và các giới hữu trách trong xã hội. Dưới đây là một bảng kê các nguyên do đã được thức giả trực tiếp hay gian tiếp nêu lên trong các cuộc bàn luận về vấn đề này:
 
1. Các nhà chế tác hệ thống chữ quốc ngữ:

Chữ quốc ngữ ra đời vì là một công cụ truyền giảng của các giáo sĩ phương tây. Trong lúc sử dụng, họ đã không tránh khỏi việc dựa vào chính tả tiếng nước họ để ghi tiếng Việt. Một thí dụ: người Pháp không đọc c / k / trước nguyên âm hẹp e, ê, i nên phải dùng k trước các nguyên âm này. Cũng thế, khi de Rhodes viết ỉa, iếu, iên theo như nguyên tắc (a) chẳng hạn, các bạn đồng sự của ông vốn tinh thông tiếng Latin có thể đọc là jả, jếu, jên,i ở đầu âm tiết có thể đọc là j trong tiếng Latin. Vì lẽ đó, ông dùng y trong trường hợp này [và trở thành nguyên tắc (c)] để tránh lầm lẫn. Nhưng tiện lợi này chỉ dành cho các vị giáo sĩ phương tây mà thôi, vì người Việt không có sự lầm lẫn đó: không bao giờ có thể đọc là cả. Sự cẩn thận của thời de Rhodes trở thành một phiền toái cho người Việt ngày nay, vì họ đã thấy viết ỉa, iếu, iên là không quen mắt, và do vậy là không "hợp lí"!

Trường hợp viết i có chúm môi trong các chữ huỷ, quỹ, tuỳ, thuý cũng có những nguyên do từ người sáng chế ra chữ quốc ngữ. De Rhodes có viết huiẹn, quiẻn. Có thể suy từ nguyên tắc (a) đó mà viết *huỉ, quĩ, *tuì, *thuí được lắm chứ ! Nhưng vào thời đó đã chấp nhận i bán âm đứng cuối âm tiết (nguyên tắc (b)) nên phải đổi sang y: huỷ. Sự bất nhất này như thế là đã kéo đi từ thời de Rhodes, mà nguyên do chỉ là vì thiếu dứt khoát trong việc chọn kí hiệu dành cho nguyên âm / i / và một cho bán âm / i /.

Một số tác giả trước đây thường lấy Alexandre de Rhodes làm mẫu mực về chính tả iy. Thật ra, những phân tích trên đã cho thấy chính thời de Rhodes đã không nhất quán trong bốn nguyên tắc chính tả được đúc kết trong Từ điển Việt-Bồ-La.
 
2. Sự bất nhất của các nhà từ điển:

Những sự bất nhất buổi đầu như đã thấy trong từ điển de Rhodes có thể tránh được về sau, nếu như các nhà làm từ điển sau de Rhodes biết điển chế hoá các nguyên tắc chính tả thời trước để lại. Tình hình lại hoàn toàn trái ngược: như phần trên đã phân tích, càng về sau, các nhà làm từ điển trong hội truyền giáo phương tây đã chỉ làm rối loạn thêm các nguyên tắc do de Rhodes đề ra, nhất là nguyên tắc (a) càng về sau càng bất nhất.

Chỉ đến thế kỉ XX, khi các học giả người Việt tham gia việc biên soạn từ điển và các hoạt động giáo dục, nghiên cứu về tiếng Việt, sự nhiễu loạn trong lối chính ta chữ iy đã trở thành một sự an bài, và các giới trong xã hội xem như một thực tiễn xã hội đã được công chúng chấp nhận.
 
3. Thói quen tuỳ tiện của người sử dụng:

Ðòi hỏi các vị thừa sai phương tây phải chính xác về mặt chính tả tiếng Việt thì kể ra cũng quá đáng. Kể từ năm 1865, khi chữ quốc ngữ trở thành thứ chữ viết chính thức ở vùng đất thuộc địa Nam bộ, và nhất là từ 1917 trở về sau, khi chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức trong khoa cử và truyền thông trong cả nước, thì chữ quốc ngữ đã trở thành tài sản chung của quốc gia. Trong thời Pháp thuộc, một số viên chức Pháp có trình độ tiếng Việt và cũng có nhiệt tâm với chữ quốc ngữ, đã nhận ra hết những nét bất nhất của hệ thống chữ viết mà tiền bối của họ đã làm ra trong chừng mức hiểu biết không thể toàn triệt như người bản ngữ. Họ đã đi tiên phong trong việc nêu lên những đề nghị sửa đổi với ngụ ý làm hoàn chỉnh hệ thống chữ viết Latin hoá này (12). Thế mà dường như không thấy có một nỗ lực nhỏ gì từ các giới trong xã hội Việt Nam suốt thế kỉ nay để góp phần kiện toàn và chuẩn hoá chữ quốc ngữ. Hiện tượng này thật khó hiểu.

"Chữ quốc ngữ" đối với người Việt Nam chỉ là một hệ thống chữ viết mượn từ bảng chữ cái Latin do người phương tây sáng chế ban đầu và ban tặng cho dân ta. Ở một thời đại khác trước đó, giới trí thức cũng đã vay mượn hệ thống chữ viết của người Hoa để tạo ra chữ nôm. Vì xem nó chỉ là thứ chữ "nôm na, cha mách qué" mà suốt bao nhiêu thế hệ sử dụng nó, chữ nôm chưa hề được điển chế để có thể trở thành thứ chữ viết của người mình. Nếu so với sự chăm chút của người Nhật, người Triều Tiên, người Hoa đối với chữ viết của họ thì giới trí thức nước ta từ xưa đến nay thật là bạc bẽo với gia sản.

Để biện hộ cho sự lãnh đạm của học giới đối với một hệ thống chữ viết do những người không phải là bản ngữ làm ra, các "nhà" ngữ học thường vẫn noi theo truyền thống nói vòng vo, nói huyên thuyên chỉ để buông lời thừa nhận là nên giữ nguyên trạng những gì người Việt chúng ta được ban tặng! Điển hình cho những lời biện thuyết cho quan điểm như thế là bài luận thuyết tràng giang của Cao Xuân Hạo (17). Tác giả đưa ra những lập luận kì lạ về tính cách của hệ thống chữ quốc ngữ là không thích hợp với tiếng Việt vì chỉ là ghi âm chứ không thể chuyên chở ý nghĩa của nó (!), nhưng rồi ông lại cho rằng "trên bình diện thực tiễn, dùng chữ quốc ngữ cho tiếng Việt cũng không có hại bao nhiêu, vì dù sao nó cũng cho phép phân biệt đầy đủ các âm thanh cần phân biệt của tiếng Việt". Ông lại xuôi dòng và nói rằng chữ viết của tiếng Anh hay tiếng Pháp cũng vô vàn cái bất hợp lí nhưng vẫn được xem là bình thường (!). Có lẽ chính tác giả cũng thừa biết là đưa chuyện chính tả của tiếng Anh và tiếng Pháp ra so với chính tả chữ quốc ngữ của chúng ta là một sự so sánh rất khập khiễng (18). Những lập luận bất nhất trong bài "báo cáo khoa học" dài lê thê kia chỉ có ý nghĩa là mờ tối thêm một việc cần làm sáng tỏ. Trong bài "báo cáo khoa học" nói trên, có lẽ chỉ có thể thu được một luận điểm xác đáng của tác giả về một hiện tượng quái dị khác thuộc về chính sách ngôn ngữ tại Việt Nam trong một thời kì rất dài: việc phiên âm ra tiếng Việt các tên riêng nước ngoài.

Nói tóm lại, giới trí thức, nhà trường và giới truyền thông Việt Nam trước đây đã không làm tròn trách nhiệm của mình cho việc giữ gìn tiếng Việt được tinh xác. Tất cả đều hành xử theo lề thói tuỳ tiện, dễ dãi, và không hề băn khoăn về hệ quả của thái độ tắc trách của mình.
 
4. Không có chính sách ngôn ngữ hợp lí:

Trách nhiệm này thuộc về nhà nước. Với chức năng điều giải và tạo điều kiện cho sinh hoạt văn hoá-giáo dục được phát triển, đáng ra các chính quyền nối tiếp nhau phải có trách nhiệm thực hiện những đề nghị của các giới chuyên môn liên quan đến vấn đề sửa đổi chính tả hoặc cải tiến chữ quốc ngữ. Một thí dụ điển hình: Bộ Giáo Dục miền nam chỉ thị rõ là chính tả tiếng Việt cần căn cứ vào Việt Nam Tự Ðiển của hội Khai Trí Tiến Ðức. Thực tế thì trường sư phạm, nhà trường phổ thông đều không cần quan tâm đến lối viết chữ i y ở trong bộ từ điển đó ra sao để mà thầy giúp trò viết theo cho đúng; bên ngoài xã hội cũng thế, có lẽ chẳng có toà báo nào, nhà in, nhà xuất bản nào có một bộ từ điển Khai Trí Tiến Đức để giúp công chúng đọc báo, đọc sách theo một chuẩn chính tả. Từ rất lâu, Trần Trọng Kim và các cộng sự của ông đã rất ý thức điều này khi soạn bộ sách giáo khoa tiếng Việt vào đầu thế kỉ XX. Các vị viết trong một lời dặn thầy cô giáo như thế này:  "Chữ y gọi là y dài là có ý lấy hình chữ viết dài và âm đọc cũng dài bằng hai chữ i thường (?), tuy vậy lúc đọc cũng gọi là i mà thôi. Chữ y dài thường hay dùng lẫn với chữ i ngắn, không lấy gì làm nhất định, như thường hay viết là , viết là mỹ." (19)

Thiếu một chính sách ngôn ngữ hữu hiệu cho nên mới xảy ra tình cảnh là cả hai chính quyền Nam và Bắc trong thời kì phân chia, và chính quyền của đất nước thống nhất sau 1975, có thể tổ chức đại hội này hội nghị kia, lắm khi rất rầm rộ, lớn lao để gọi là thống nhất ngôn ngữ nhưng trên thực tế thì tất cả đều đã tránh né việc thống nhất thật sự. Kết cục là những đợt sửa đổi chính tả chữ quốc ngữ đều không thành vì nó không tiến xa hơn những trò khoa trương nặng tính tuyên truyền hơn là học thuật. Trong số những nhà chính trị có nhiệt tâm với việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt có lẽ chỉ có một người: Phạm Văn Đồng. Trong bao nhiêu năm làm Thủ tướng, ông có nhiều bài phát biểu bày tỏ sự quan tâm của ông đối với vấn đề. Ông nói đến nhiều hiện tượng sai quấy làm vẩn đục tiếng Việt trong xã hội miền bắc trước 1975, có nhiều chuyện có thể cười ra nước mắt. Những bài nói và viết ấy về sau được in ra tập Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt được in lại và bổ sung nhiều lần từ trước và sau 1975. Những trăn trở bứt rứt của tác giả cũng chỉ được đến thế thôi. Không mảy may tác động đến hiện thực quanh ông hằng ngày.

Một thời kì dài như thế chỉ còn đọng lại mấy công phu của vài cá nhân đi tiên phong (14), nhưng đã không hề được công luận dành cho sự chú ý và hỗ trợ cần thiết để đẩy nhanh việc chuẩn hoá chính tả tiếng Việt.
 
MỘT VÀI ÐỀ NGHỊ

Ðứng trước tình hình như thế, chúng ta bây giờ có thể làm gì được không? Trước kia, các nhà ngữ học trường phái miêu tả Mĩ cho rằng ngôn ngữ là hiện tượng sinh hoạt tự nhiên cuả xã hội, và vì thế nhà ngữ học chỉ có thể miêu tả chúng mà không thể đặt vấn đề "sưả đổi", "cải cách". Nói cách khác, hãy để ngôn ngữ thuận tự nhiên. Cái gì công chúng đã chấp nhận kinh qua thời gian thì xã hội phải chấp nhận nó là của mình.

Cần nói ngay là một quan điểm như thế là máy móc và lầm lẫn. Trước hết, không ai nói gì đến chuyện chỉnh đốn, sửa đổi ngôn ngữ. Tiếng nói của cha ông đã hình thành qua chiều dài lịch sử cả nghìn năm thì vẫn còn đó. Công chúng đã sử dụng tiếng Việt như một tài sản ngôn ngữ chung cho cả nước. Toàn xã hội đã, đang và vẫn sẽ chuẩn nhận nó là tài sản của xã hội. Trước năm 1917, trên đất nước ta vẫn còn dùng chữ Hán trong khoa cử, trong hành chính. Sinh hoạt văn hoá thì sử dụng chữ Hán và chữ Nôm để biểu đạt. Chữ Nôm chỉ là hệ thống chữ viết bên lề cho nên nó chưa có điều kiện để chuẩn hoá. Vì vậy cho nên cùng một từ có thể một nhà văn ở miền bắc có thể viết khác với một nhà văn nhà thơ đàng trong. Tình trạng chữ quốc ngữ cũng tương tự: suốt từ khi các giáo sĩ phương tây chế tác ra nó cho đến khi nó được nhà nước thuộc địa quy định là chữ viết chính thức, thay cho chữ Hán trong khoa cử, trong giáo dục cả nước năm 1917, chưa bao giờ chữ quốc ngữ có điều kiện được kiện toàn. Tuỳ mỗi nhà soạn từ điển, tuỳ mỗi nhà giáo ở những trường đào tạo khác nhau mà chữ quốc ngữ có dung mạo không giống nhau. Mãi cho đến khi đất nước độc lập, năm 1945, chữ quốc ngữ phải lao ngay vào vai trò chữ viết chính thức cho toàn xã hội. Sách, báo, trường học đều lao vào cuộc chạy đường dài mà không hề được có thời gian chỉnh bị, kiện toàn cho nó. Chữ quốc ngữ cho đến nay, suốt hơn ba trăm năm trời chưa hề có điều kiện hoàn thiện nó thì ai trong xã hội ngày hôm nay có thể bảo rằng xã hội hãy chấp nhận hệ thống chữ quốc ngữ là một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh? Vì tình hình cụ thể như thế của chữ quốc ngữ mà suốt từ 1902 đến nay đã có rất nhiều nỗ lực muốn góp phần chuẩn hoá chính tả chữ quốc ngữ.

Chúng tôi không tán thành quan điểm dễ dãi là cứ để chữ quốc ngữ trôi dạt như hơn ba trăm nay như thế, nên thử đặt lại vấn đề "tiêu chuẩn hoá" một số vấn đề chính tả. Thực ra, việc cần chuẩn hoá chính ta tiếng Việt không phức tạp, không nhiều vấn đề như người ta tưởng. Cần nói ngay là hệ thống chữ quốc ngữ có ưu điểm khá lớn là tương ứng gần như một đối một giữa tiếng nói và chữ viết. Sách báo in vào nửa đầu thế kỉ XX tại Hà Nội hay Sài Gòn đều có những lối viết dựa trên phát âm địa phương; nhưng đó là hậu quả lối nói và lối viết địa phương trong điều kiện hoàn cảnh tự phát. Chỉ từ khi đất nước thống nhất, một vài hiện tượng sai chệch còn tồn đọng của chính tả chữ quốc ngữ thì không thể gọi là nhiều, mà nổi trội là chuyện chữ iy.

Hưởng ứng các đề nghị cuả những người đi trước, chúng tôi đề nghị nên tiêu chuẩn hoá chính tả hai chữ iy trong chừng mức ít xáo trộn nhất. Giải quyết được vấn đề chính tả chữ i y sẽ giải gỡ được tính bất nhất của chính tả tiếng Việt hiện đại rất nhiều.

Hiện nay, ở thời điểm này, chính tả hai chữ iy đã có những khuynh hướng khác biệt nhau về chi tiết đối với nguyên tắc (a) từ thời De Rhodes. Sách báo tiếng Việt trong nước và hải ngoại đều cho thấy tính cách bất nhất khi viết nguyên âm / i /. Người sử dụng chỉ lặp lại một tập quán chính tả đã quen thuộc với mình, nên chi có hiện tượng tồn tại song đôi các lối viết như: sĩ / sỹ, tị (nạn)/ tỵ (nạn), mĩ / mỹ, kí / ký... Ngoại trừ sự khác biệt này, có thể nói là cách viết chính tả chữ iy hiện nay có hệ thống mạch lạc trong chính nó. Bảng 2 dưới đây phác lại hệ thống đó, dựa trên mối quan hệ ngữ âm và mặt chữ; qua đó có thể nhận ra những mối quan hệ ngữ âm trong hệ thống, và từ đó có thể định đoạt cách viết i hay y cho phù hợp với hệ thống:
                                                                       
Bảng 2
 
Ðể đưa hệ thống mô tả ở Bảng trên vào việc thực hành chính tả cách viết hai chữ iy, có thể cụ thể hoá thành những quy tắc như được ghi trong Bảng 3 dưới đây:

              Chỉ viết y trong những trường hợp sau đây:
                             (1)  khi tổ hợp âm /ie/ ở đầu âm tiết. Ví dụ: yên, yêu, yết
                             (2)  trong các tổ hợp âm chúm môi /ui/ và /uie/.
                                           Ví dụ: uy, nguy, tuy, quýt,chuyên, khuya  
                             (3)  ở sau âm ngắn /ă/ và âm ngắn /â/. Ví dụ: cay, dày, đẫy, mây
              Chỉ viết i trong những trường hợp sau đây:
                             (4)  khi nguyên âm / i / làm âm chính của âm tiết.
                                           Ví dụ: (âm) , (ầm) ĩ, kí, sĩ, tị, kim, vịnh 
                             (5)  khi âm cuối / i / đi sau nguyên âm thường/dài. Ví dụ: củi, đói, hời, nòi, trai

Bảng 3

Năm quy tắc trên là đúc kết từ những điểm đã được dùng làm phương châm chính tả trong khi soạn từ điển, được dùng trong sách báo, và được giảng dạy trong nhà trường.

Những quy tắc trên có còn trung thành hay đã vượt bỏ bốn nguyên tắc chính tả thời de Rhodes? Câu trả lời là: Có. Hơn thế nữa, năm quy tắc trên đây đã tập đại thành từ những kinh nghiệm điển chế các nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ qua bao đời để cho bốn nguyên tắc đề ra từ thời De Rhodes thêm hợp lí, nhất quán. Một điểm lợi trên thực tế là năm quy tắc nêu trên đã loại bỏ được rất nhiều những trường hợp ngoại lệ mà bốn nguyên tắc cũ tạo ra. Duyệt lại năm quy tắc trên, chúng ta có thể hợp lí hoá những trường hợp trước kia bị xem là lạc ra khỏi quy tắc:

Quy tắc 1 loại bỏ được những trường hợp trước đây có người muốn triệt để dùng i trong tổ hợp âm / ie /; chẳng hạn: iêu dấu, iếu kém, niêm iết... Tất nhiên là nếu giữ được đúng nguyên tắc một âm một kí hiệu thì phải như thế. Nhưng hiện tình chính tả tiếng Việt chưa chấp nhận xu hướng này.

Quy tắc 2 loại khỏi chính tả tiếng Việt những kiểu áp dụng chính tả nay đã không còn được chấp nhận dù cho chúng có thể đúng nguyên tắc kí âm: huiện, quiển, huỉ hoại, ma quỉ, thuí kiều, thuí nga... Quy tắc này có thể giải toả những lúng túng thường gặp trước đây khi chúng ta tách âm / ui / (viết là uy) trong âm tiết có âm đầu / k / (viết là q) khỏi hệ thống.

Quy tắc 3 và quy tắc 5 không gây ra những tranh luận nào về vai trò của iy âm cuối.

Quy tắc 4 là mục tiêu của nhiều tranh luận từ xưa nay. Những quy tắc khác đã giúp cho quy tắc này trở nên rõ ràng hơn. Với quy tắc 4 thì ta đã có chuẩn mực để giải quyết những trường hợp chữ iy đơn lập thành một âm tiết. Số lượng âm tiết có i đơn lập là sáu từ: (âm) i, (âm) , (ầm) ĩ, (đi) , (đằng) í, (đứng) ì. Khi chấp nhận chuẩn là i như thế thì những từ dùng y đứng một mình có thể xem là ngoại lệ, và số lượng của chúng không nhiều lắm, chỉ có ba: y , ý , ỷ. Cả ba đều là những từ hán việt, và mục từ này không có các tiếng có giọng huyền, nặng và ngã. Cũng trong khuôn khổ quy tắc này, cần nhắc đến một ngoại lệ khác: (giặt) gỵa. Tổng cộng chỉ có bốn từ là ngoại lệ.

Bảng đối chiếu dưới đây có thể giúp nhận ra khuôn dạng của nguyên tắc chính tả chữ iy như đã ghi trong Từ điển Việt-Bồ-La so với hiện nay.

                                           Tiếng Việt ở thế kỉ XVII                       Tiếng  Việt hiện đại        
                                           (a) phần âm chính của âm tiết                  quy tắc (4) và (2)
                                           (b) âm cuối sau nguyên âm dài                quy tắc (5)
                                           (c) đứng đầu âm tiết                                 quy tắc (1)
                                           (d) âm cuối sau nguyên âm ngắn             quy tắc (3)

Bảng 4
 
Những phân tích trên đây nhắm mục đích duyệt lại một vấn đề nhỏ nhưng lại khá phức tạp. Vấn đề chính tả một nguyên âm không phải là chuyện lớn. Nhưng vấn đề đã trở thành phức tạp ngay từ thế kỉ XVII vì có một số lẫn lộn giữa các âm vị khác nhau (trong trường hợp chúng ta đang bàn đây thì là giữa nguyên âm / i / và một bán âm ở cuối âm tiết), hoặc là dùng nhiều kí hiệu khác nhau để ghi một âm vị (trong trường hợp này là hai chữ cái dùng để ghi một âm / i /, và cũng hai chữ cái ấy để ghi bán âm trong hai hoàn cảnh khác nhau. 
Ðầu mối của sự rắc rối là từ đấy. 

Cứ sự thường thì không thể giải quyết thật ổn thoả vấn đề chập lẫn như thế chỉ bằng những giải pháp cục bộ. Trên lí thuyết, có thể giải quyết vấn đề iy qua giải pháp triệt để nhất và lí tưởng nhất, dựa trên nguyên lí một âm hiệu có một kí hiệu tương ứng. Nhưng đấy lại là giải pháp bất khả, vì ngôn ngữ là một công cụ xã hội, và đời sống của nó tuỳ thuộc vào sự ý thức và chấp nhận của xã hội. Những đề án cải tổ chữ quốc ngữ hoặc thống nhất ngôn ngữ cần quan tâm đến thói quen của xã hội để giúp điều chỉnh mà không gây nên những xáo trộn đối với xã hội.

Ðộc giả có thể nghĩ rằng chúng tôi quá thiên về mặt lịch đại (diachonic), nhưng chúng tôi tin là hướng tìm tòi như thế không hề có tính cách khảo cổ, mà chỉ muốn qua đó để nhận diện rõ hơn về tính lịch sử của những hiện tượng bất nhất hiện nay. Vì sự bất nhất đã hiển nhiên và có nguyên do cụ thể của nó. Những tìm tòi vưà kể sẽ có ý nghiã cho những ai có trách nhiệm (bao gồm: những người quản lí vấn đề chính sách ngôn ngữ quốc gia, báo chí truyền thông & nhà xuất bản, và nhà trường các cấp) để góp phần vào tiến trình chuẩn hoá ngôn ngữ.

Có thể trong tương lai xa, khi có những cải cách triệt để chính tả chữ quốc ngữ, năm quy tắc kia sẽ thay đổi chăng. Nhưng đó là chuyện về sau. Trong điều kiện hiện nay, năm quy tắc đó có thể rút xuống mức thấp nhất những rối rắm về chính tả chữ iy mà nguyên nhân chính là việc dùng một đồ vị để ghi hai âm vị khác hẳn nhau: i/y đều dùng để ghi nguyên âm / i / và bán âm cuối / j /. Sự lẫn lộn này đã có từ thời De Rhodes chứ không phải hoàn toàn là do người đi sau.

Những Quy Ðịnh về chính tả tiếng Việt năm 1980 và năm 1984 là những quy định tương đối ổn thoả nhất sau một thời thử nghiệm dài lâu. Những thay đổi đề ra trong các bản Quy Ðịnh vừa nhắc ở trên đã thừa nhận một nhu cầu cần sửa đổi vừa phải để chính tả được nhất quán hơn. Quy Ðịnh chính tả như thế chính là sự công nhận một công phu tập thể, công nhận những giá trị của quan điểm chính tả mà Việt Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến Ðức và một số học giả đã bền bỉ mở đường trước đây. Ðấy là thành quả mà thế kỉ XX đã dành cho chữ quốc ngữ, sau khi đã trải một quá trình tích luỹ kinh nghiệm lâu dài. Chuyện còn lại bây giờ là sự tiếp nối về thế hệ mai sau.

                                                             Ðoàn Xuân Kiên
                                  (Tập san Định Hướng 15 (Mùa Đông 1998), tr. 96-111)                             

(1) Linh mục Nguyễn Khắc Xuyên đã nhiều lần xem xét vấn đề này. Xem: Nguyễn Khắc Xuyên, "Chung quanh vấn đề thành lập chữ quốc ngữ". Văn Hoá nguyệt San, số 39 (1959), tr.167-177 và số 48 (1960), tr. 1-14; "Nguồn gốc hai chữ i và y trong quốc âm", Văn Hoá nguyệt San, số 61 (1961), tr. 519-526; và gần đây nhất là bài "Về i hay y trong chính ta Việt ngữ", Văn Học (USA), số 75 (th. 7, 1992), tr.3-13.

(2) Phạm Thị Tú Minh, Nguyễn Văn Thế & Ðoàn Xuân Kiên (1998): Học Kĩ Ðọc Ðúng - Sách Hướng Dẫn I. Tilburg: Zwijsen.

(3) Alexandre de Rhodes (1651), Dictionarium Annamiticum-Lusitanum et Latinum. Rome. Bản dịch của Viện Khoa Học Xã Hội, Sài Gòn, 1991, tr. 7.

(4) Xem bản chụp các văn bản của Gaspar D'Amaral (tr. 134), Văn Tín và Bento Thiện (tr. 139 trở đi) trong: Đỗ Quang Chính (1972):  Ch.4: "Tài liệu viết tay của hai người Việt Nam" (1659) in Lịch sữ chữ quốc ngữ 1620-1659. Saigon: nxb. Ra Khơi.

(5) Xem: Philiphê Bỉnh (1793): Những bài thơ trong Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo. Bản phiên và chú thích của Đoàn Xuân Kiên. Định Hướng tùng thư, 2004; Pigneaux de Béhaine (1773): Dictionarium Anamitico-Latinum. Bản chụp in của Archives des Missions Étrangères de Paris, 2001).

(6) A. J. L. Taberd (1838): Dictionarium Anamitico-Latinum. Serampore. (Bản chụp in của Nxb. Văn Học & Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Sài Gòn, 2004)

(7) Huình Tịnh Paulus Của (1895-1896): Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (2 Tomes). Impremerie Rey, Curiol & Co., Saigon.

(8) J. F. M. Genibrel (1898): Dictionnaire Annamite-Francais. Imprimerie de la Mission à Tân Định, Saigon.

(9) Ban Văn Học, hội Khai Trí Tiến Đức (1931): Việt Nam Tự Điển. Imprimerie Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội.

(10) Đào Duy Anh & Hãn Mạn Tử (1932): Hán Việt Từ Điển Giản Yếu. Imprimerie Tiếng Dân, Huế.

(11) Gustave Hue (1937): Dictionnaire Annamite-Chinois-Français. Imprimerie Trung Hoà, Saigon.

(12) Xem: Compte-rendu du premier Congrès international des Etudes d'Etrême-Orient. BEFEO, t.III, (1903) tr. 126-127. Cũng có thể xem tóm tắt bản đề nghị này trong: Nguyễn Bạt Tuỵ (1949), tr. 10-12.

(13) Lê Ngọc Trụ (1959): Việt ngữ chánh tả tự vị. Nxb. Thanh Tân, Sài Gòn.

(14) Chúng tôi ghi lại đây một danh mục không đầy đủ các sách in và bài đăng báo theo ý hướng chuẩn hoá chữ quốc ngữ, cụ thể là lối viết chữ iy của bốn vị tác giả của Miền Nam trong thời chia cắt đất nước: Hoàng Xuân Hãn (1964): Bích Câu Kì Ngộ. Huế: Nxb. Đại Học, và các bài in trong tập san Sử Địa (Sài Gòn) thập niên 1970, tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) thập niên 1980; Trương Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê (1963): Khảo Luận Về Ngữ Pháp Việt Nam. Huế: Nxb. Đại Học, và các bài in báo của hai vị trong tạp chí Đại Học (Huế),  tập san Văn, Tân Văn (Sài Gòn), Tư Tưởng (Sài Gòn) thập niên 1970; Trần Ngọc Ninh (1972): Đức Phật Giữa Chúng Ta. Sài Gòn: Nxb. Lá Bối, và các bài báo của ông in trên tạp chí Bách Khoa (Saigon) thập niên 1970.

(15) Nguiễn Ngu Í (1965): Sống Và Viết... Nxb. Ngèi Xanh, Sài Gòn.

(16) Viện Ngôn Ngữ Học (2000): Từ điển tiếng Việt. Nxb. Trung Tâm Từ Điển Học, Hà Nội.

(17) Cao Xuân Hạo (1995), Báo cáo đọc tại Hội nghị "Chữ quốc ngữ và sự phát triển của văn hoá Việt Nam", Trường Đại học Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh, in lại trong Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. nhà xuất bản Giáo Dục, TP Hồ Chí Minh, 1998.

(18) Tiếng Anh chẳng hạn đã do chính người bản ngữ hình thành qua lịch sử cả nghìn năm. Đến thế kỉ XII, nó đã trở thành ngôn ngữ văn hoá, đánh dấu bằng tác phẩm The Canterbury Tales của Geoffrey Chaucer; kế đó là một đỉnh cao khác ở thế kỉ XVI: kho tàng kịch bản và thi ca do William Shakespeare viết. Đến thế kỉ XVIII, nhà từ điển đầu tiên của nước Anh là Samuel Johnson đã đặt dấu mốc quan trọng cho việc chuẩn hoá tiếng Anh. Từ đó, theo luật biến thiên, tiếng Anh có sự sai chạy giữa tiếng nói và chữ viết, nhưng đó là sự thay đổi tất yếu qua thời gian để trở thành điều mà người ta gọi là những "bất hợp lí" trong tiếng Anh.

(19) Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc & Đỗ Thận (1917): Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Sách Tập Đọc và Tập Viết) - Lớp Đồng Ấu. Nha Học Chính Đông Pháp, Hà Nội, tr. 8. 


No comments:

Post a Comment

  Phan Châu Trinh - ánh đuốc duy tân xuyên thế kỷ Đoàn Xuân Kiên Những năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về...