Chữ i và y
trong chính tả tiếng Việt
Ðoàn
Xuân Kiên
Chính
tả tiếng Việt ở cuối thế kỉ XX đang còn một số vấn đề cần giải
quyết nhưng lại bị bỏ lửng quá lâu. Công luận thỉnh thoảng vẫn thường lên tiếng
yêu cầu đặt lại vấn đề sửa đổi cách viết sao cho hợp lí, đúng chính tả truyền
thống. Một trong số những vấn đề đã tốn hao khá nhiều giấy mực là vấn đề chính
tả của chữ i và y. Ngược lại quá khứ có thể thấy là vấn đề này đã được đặt ra từ
rất sớm, ít ra là từ thời Hội nghị Khảo cứu Viễn đông năm 1902. Tại hội nghị
này, một Uỷ ban xét về việc sửa đổi chữ quốc ngữ đã lên một danh sách các đề
nghị sửa đổi đệ trình lên phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Một trong những đề nghị
của Uỷ ban này là: nên trở lại nguyên tắc chính tả do Alexandre de Rhodes đưa
ra, nghĩa là không nên tuỳ tiện đổi i
thành y trong một số trường hợp. Chẳng hạn theo nguyên tắc của de Rhodes
thì lối viết ky , ly , my
không có lí do chính đáng so với lối viết mi
, ki , li. Từ đó đến nay đã tròn một thế kỉ. Cũng kể từ De Rhodes đến
những thập niên đầu thế kỉ XX, vấn đề này càng trở nên rối loạn vì hiện tượng
tuỳ tiện trên sách báo và trong giáo dục nhà trường. Ðã có nhiều bậc thức giả
đặt vấn đề chính tả này ra để lưu ý giới hữu trách (chính quyền, nhà trường và
giới truyền thông) về một vấn đề nhỏ nhưng phức tạp. Ðáng tiếc là suốt mấy mươi
năm nay, sự đáp ứng trong học giới và ngoài công luận thường rất dè dặt, lơ là.
Trong số những điều bất hợp lí về chính tả tiếng Việt, có
những điều đã đi vào tập quán ngôn ngữ: chẳng hạn, chúng ta có bài và bày, khi nói ra chỉ khác nhau ở âm chính a đọc bình thường, và ă
là thể ngắn cuả a. Thế nhưng khi
viết, thể ngắn cuả âm chính đã chuyển trách nhiệm về bán âm cuối i và y
để phân biệt a ngắn và a dài. Tuy nhiên, cũng có những bất nhất tạo ra do sự nhầm lẫn
hay bất cẩn cuả một số người soạn từ điển, sách báo để lại, dẫn đến việc sử
dụng tuỳ tiện của công chúng.
Trong bài này, chúng tôi xin nối điêu các tác giả đi
trước mà xem xét lại vấn đề chính tả chữ i
và y (1). Nhân đó chúng tôi đề nghị
một cách giải quyết cho vấn đề dạy chính tả này do chúng tôi áp dụng nhất quán
trong khi soạn tài liệu dạy tiếng Việt trong bộ sách giáo khoa Học Kĩ Ðọc Ðúng dành cho trẻ mới bắt đầu
học đọc, do nhà Zwijsen ấn hành tại Hoà Lan (2). Chúng tôi mạnh dạn đưa ra mấy
nhận định về nguyên nhân cuả hiện tượng bất nhất trong chính tả chữ i và y như ta thấy hiện nay. Và sau cùng là khôi phục lại những quy tắc
mà chính tả chữ i và y mà tiếng Việt hiện đại chấp nhận.
CÁCH VIẾT I
VÀ Y
TRƯỚC NAY
Trước hết, thiết tưởng cũng cần nêu lên đây một nét chính
của nguyên tắc chính tả tiếng Việt là nguyên tắc kí âm, nghĩa là phát âm làm
sao thì viết ra như thế, và mỗi âm được biểu thị bằng một kí hiệu (chữ cái). Lí
thuyết thì như thế nhưng trên thực tế thì chính tả tiếng Việt hiện nay vẫn có
những điểm không sát hợp với phát âm. Trong số những hiện tượng chữ viết đi lạc
khỏi hệ thống chính tả có trường hợp chữ i
và y. Xưa nay, hai chữ cái này dùng
để ghi lại cùng một nguyên âm / i /: dì ,
luỵ. Ngoài ra, hai chữ cái này cũng
dùng để ghi hai âm cuối, tức là một âm phụ để khép âm tiết lại. Âm cuối này
viết là i hay y là tuỳ theo nguyên âm trước đó ngắn hay dài: sau nguyên âm dài
thì âm cuối này viết là i (chẳng hạn:
hai, phơi), và sau nguyên âm ngắn sẽ viết là y (chẳng hạn: may, cây ). Dưới đây chúng ta sẽ duyệt lại
cách viết của i và y trong ba vai trò: âm chính, âm cuối
của âm chính dài và của âm chính ngắn.
Chúng tôi đã xem xét lại chính tả cuả chữ i và y,
và ghi nhận những trường hợp sau đây:
- si/sy
- li/ly - kí/ký: chữ i và y đặt ở sau phụ âm đầu, làm phần âm
chính cuả âm tiết
- sinh - lính - kính -xỉu: chỉ dùng chữ i
trong phần chính cuả âm tiết mà không bao giờ dùng chữ y
- hia - bià - điã - hiền - biết - giếng: chữ i đi
kèm với nguyên âm ê để làm thành
tổ hợp âm chính cuả âm tiết
- yêu - yến - yểng:
tương tự như trường hợp 3 trên đây, nhưng chỉ dùng chữ y
- im - ỉu - ý - y - ỷ/ỉ:
chữ i và y đều đứng ở đầu âm tiết
- quí/quýt - huyện - thuý - nguy: chữ i và y trong các tổ hợp nguyên âm chúm môi (nghiã là khi viết thì có chữ u đặt trước nguyên âm chính)
- mai - cúi - mây - cay - cai: chữ i và y là hai âm cuối đi theo sau một nguyên âm để khép âm tiết lại.
Trong số những trường hợp trên đây, chỉ có hai trường hợp
2 và 3 là dứt khoát, không có tình hình nước đôi là dùng lẫn cả i và y;
ngoại giả, năm trường hợp còn lại có tình trạng hai chữ i và y dùng thông lẫn
nhau.
Xem xét kĩ thì hiện tượng i và y không phải là có
thể dùng tuỳ tiện, không theo nguyên tắc nào. Trong năm trường hợp còn lại, có
thể nhận thấy ngay là chúng ta có thể tách được hai nhóm 4 và 5, vì chúng có
những nét sóng đôi với hai nhóm 2 và 3: tất cả đều là thành phần âm chính cuả
âm tiết. Chỉ có điểm khác biệt duy nhất: một đằng i và y đứng ở đầu âm tiết
(nhóm 4 và 5), một đằng thì có phụ âm đầu đi trước (nhóm 2 và 3). Dưạ trên nét
khu biệt này mà chúng tôi quy bốn nhóm vào một loại, phân tích bậc hai để nhận
ra quy tắc cuả chúng. Cuối cùng chỉ còn lại nhóm 1 là nhóm rắc rối nhất trong
khi viết chính tả hai chữ i và y.
Duyệt lại vấn đề, mục đích cuả chúng tôi chỉ là đề nghị
các giới liên quan tạo điều kiện để giảm thiểu những bất nhất, rắc rối cho
những ai học và dạy tiếng Việt. Từ đó, chúng tôi muốn góp phần đặt lại vấn đề
chính tả này sao cho "hợp lí" hơn. Bài viết có thể chỉ cần một đoạn
ghi năm quy tắc (bảng 3) là đủ. Nhưng chúng tôi muốn tìm hiểu thêm: tại sao có
hiện tượng bất nhất trong lối viết chính tả chữ i và y như chúng ta thấy
hiện nay. Ngược lại lịch sử cuả vấn đề, chúng tôi nhận thấy là chính tả chữ i và y lộn xộn không phải là vì thiếu
nguyên tắc chính tả, nhưng là do sự bất chấp nguyên tắc cuả những người biên
soạn từ điển từ De Rhodes trở xuống.
Căn cứ vào một số văn bản rải rác từ thế kỉ XVII về sau
này, có thể nói là lối viết chữ i và y đã trải qua một số những thay đổi kể
từ khi chữ quốc ngữ ra đời đến nay đã hơn ba trăm năm.
1. Thế kỉ XVII:
Năm 1651 đánh dấu sự ra đời của bộ từ điển Dictionarium Annamiticum-Lusitanum et
Latinum (thường gọi là Từ điển
Việt-Bồ-La) của Alexandre de Rhodes. Bộ từ điển này có in kèm một phần "Báo
Cáo Vắn Tắt Về Tiếng An Nam Hay Ðông Kinh". Ðây chính là bản văn về ngữ
pháp tiếng Việt đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ nay còn giữ được. Trong
mục viết về chữ i, tác giả viết: "I, chúng tôi chỉ sử dụng i nguyên âm, bởi vì tất cả công dụng của
i phụ âm được thực hiện tốt hơn bằng chữ g , vả lại i nguyên âm sử dụng như
chúng ta; tuy nhiên, để tránh sự lẫn lộn, chúng tôi chỉ dùng i nguyên âm ở giữa và cuối tiếng: ở giữa
tiếng, thí dụ biết, scire (hiểu
biết), và ở cuối tiếng, thí dụ bí,
cucurbita Indica (quả bí); nhưng cần
ghi nhận rằng chúng tôi sẽ dùng y ở
cuối từ khi nào nó làm thành nhị trùng âm mà vẫn tách biệt, thí dụ éy, ille (cái ấy), còn khi chúng tôi
viết với i nguyên âm thì đó là dấu
hiệu vẫn không tách biệt, thí dụ ai,
quis (ai); chúng tôi không dùng hai chấm ở trên các nguyên âm để tránh sự gia
tăng quá nhiều dấu hiệu; cần lưu ý một lần cho xong là i ở cuối từ sau một nguyên âm khác thì không làm thành một vần khác
tách biệt, còn khi viết với y Hi lạp
thì bấy giờ vẫn bị tách biệt, thí dụ cai,
superior (cao hơn, bề trên), cây,
arbor (cây cối). Cũng ở đầu tiếng, nhất là trước một nguyên âm khác, thì chúng
tôi dùng y Hi lạp, nhưng đừng ai cho
đó là phụ âm, thí dụ yêó, debilis
(yếu đuối), yả, cacare (ỉa, phóng
uế)." (3)
Ðại ý của đoạn văn trên là đưa ra bốn nguyên tắc viết chữ
i và y mà chúng tôi tóm thành nguyên tắc (a), (b), (c), (d) ghi trong Bảng 1 dưới đây:
(a) chữ i dùng để ghi nguyên âm của âm tiết,
có thể là nguyên âm đơn /i/ hay nguyên âm đôi / ie /: bí , biết;
(b) khi là bán âm thì i được viết sau nguyên âm thường: cai;
(c) chữ cái y dùng để ghi nguyên âm / i / đứng đầu âm tiết: yếu , yả (iả);
(d) chữ y bán âm đi sau nguyên âm ngắn: cây,
ấy.
Bảng 1
Các từ có âm / i / trong phần từ điển đã được viết theo
nguyên tắc chính tả này. Chúng tôi sẽ trích dẫn các mục từ trong bộ từ điển,
xếp lại theo thứ tự bốn nguyên tắc vừa nêu, làm thí dụ dẫn chứng:
(a) i
(áo), í, ít, bí, gì, kinh kì, lí, gia giảm, chiêm, chiếc, biếu, huỷ (báng),
huỷ (cưới), huyện=huiẹn, uy nghi quỉ, quí, quì, huiẹt (huyệt), quièn (quyền), quiẻn (quyển) sách;
(b) bói,
xơi, ngôi, nuôi, ủi, uoi (voi);
(c) yếm,
yểm, yên, yén (yến sào), yêu, yếu,
yểu, jà (già), jì (gì), jở (giở)
(d) rày,
rảy, thay, nấy, đứt dey (dây), lêy,
lếy
Nếu nhận những nguyên tắc trên đây do A. de Rhodes đưa ra
là mẫu mực của thời kì này, thì cũng cần ghi nhận hiện tượng là có thể có những
lối viết khác cùng tồn tại nhưng đã không được đa số dùng theo. Chẳng hạn,
nguyên tắc (a) trong văn kiện của Gaspar d'Amaral (1632) có chỗ viết hơi khác: nghyã (nghĩa) an xã, thuyèn thuỉ (thuyền thuỷ); nguyên tắc
(b) trong văn bản của D'Amaral nói trên và của Văn Tín, Bento Thiện (1659) được
viết dưới dạng: blờy (trời), mlờy (lời) lại (lạy), tôy (tôi), mườy hay (mười hai), lạy (lại)... Nhóm (c) chủ yếu là để ghi
mục từ i/y. Nhưng ngoài một vài từ viết với i là âm chính của âm tiết như đã
thấy một số từ ghi ở nhóm (a) trên kia, tất cả các từ có tổ hợp /ie/ đều được
viết với y ở trước nguyên âm ê, ngoại trừ một số từ được tác giả
viết với chữ j: jà (già), jì
(gì), jở (giở). Điều này cho thấy
còn có sự phân vân giữa hai đồ vị để chỉ một âm vị mà de Rhodes cho là bán âm
/y/. (4)
Từ điển Việt-Bồ La của de Rhodes có lẽ đã nhanh chóng trở
thành sách tham khảo của những người muốn dùng chữ quốc ngữ thời ấy, và những
quy tắc chính tả do ông thiết định sớm trở thành chuẩn mực cho mọi người. Tuy
vậy, có một điểm không nhất quán trong nguyên tắc (a) đối với lối viết âm
/ i / có chúm môi: uiê (huiẹn) = uyê
(huyện), và ui (quỉ) = uy (tuy).
Tóm lại, tình hình chính tả của i và y ở thế kỉ XVII
không ổn định trong cả hai trường hợp: trong vai trò nguyên âm làm âm chính
(nhóm a), có sự dùng thông giữa i và
y trong nhiều trường hợp, dù có chúm
môi hay không. Trong vai trò âm cuối cũng thế, sự phân bổ i và y không dứt khoát: có
khi đứng sau nguyên âm dài thì viết với y
(blờy, lạy (lại), mườy). Sự thiếu nhất quán như thế đã
xuất hiện từ khi mới hình thành hệ thống chữ quốc ngữ.
2. Thế kỉ XVIII:
Hiện nay tài liệu văn bản chữ quốc ngữ của thế kỉ XVIII
có thể tìm trong các bản thảo của Philiphê Bỉnh và bộ từ điển Dictionarium Anamatico-Latinum của cố
Pigneaux de Béhaine soạn trong thời gian 1772-1773 (5). Sau đây là một số từ chúng
tôi nhặt ra từ các mục từ trong từ điển Pigneaux de Béhaine và cũng sắp xếp vào
bốn nhóm theo bảng 1 trên kia:
![]() |
Từ điển Pigneaux de Béhaine (1773) |
(a) chữ i dùng để ghi nguyên âm của âm tiết, có thể là
nguyên âm đơn /i/ hay nguyên âm đôi / ie /: bí,
gì, kinh kì, li, lí, lì, thì, thỉ, chiêm,
chiếc, biếu, liếc, liềm, tiết, huỷ (báng), huỷ
(cưới), huyện, luỵ (nhỏ), luỹ, luyện, nguy,
nguyên, nguyệt, quỉ, quí, quì, huyệt, huyết, huinh, huình, quyền, quyển,
quyến, quyết, qui, quí, quít, quì (lạy), quỉ, quyên, quyển (sách), uy, uỷ, uinh
(b) khi là âm cuối thì i
được viết sau nguyên âm thường: ai, ái, bói,
chòi, chồi, (khoai) lùi, nôi, nuôi, ngoi,
ngoái, ngôi, người, quai, quái, sai,
ui, ủi, vai, vải, voi, xài
(c) chữ cái y
dùng để ghi nguyên âm / i / đứng đầu âm tiết: y (áo), ý, ỷ (thế),
(trời) ym, yn
(sách), ỉa, ích, ít, yếm, yểm, yên, yêu, yếu, yểu, ỷnh, ỷu
(d) chữ y âm cuối đi sau nguyên âm ngắn: áy náy, ấy, ngoáy,
quay, quây, rày, rảy, say, thay, váy,
vậy, xay, xảy
Có thể nhận thấy ngay là nhóm (b) và (d) rất ổn định: các
âm chính dài đều viết với i (ai, chòi, lùi, ngoái, quai, sai, ui, voi, xài),
trong khi các âm chính có nguyên âm ngắn đều viết với y (áy náy, ngoáy, quây, rày, say, thay, vậy, xảy).
![]() |
Một trang bản thảo của Philiphê Bỉnh (1793) (5) |
Hai nhóm (a) và (c) thì tình hình có khác. Trong nhóm (a), khi chữ i dùng để ghi âm chính của âm tiết, có thể là nguyên âm đơn / i / hay nguyên âm đôi / ie /, có tình hình nước đôi: nếu chỉ là nguyên âm đơn /i/ thì nhất loạt viết i (bí, quì); khi i kết hợp với nguyên âm ê thì viết iê (biếc, biếu, chiêm, chiếc, liếc, liềm, tiết), nếu âm tiết có chúm môi thì nhất loạt viết uyê (huyện, luyện, nguyên, nguyệt, huyết, quyền, quyển, quyết); tuy vậy, khi nguyên âm / i / là âm chính có chúm môi thì lại có tình hình nước đôi: khi thì viết với y (huỷ, uy), lúc lại viết với i (quì, quít, huình).
Nhóm (b) cũng có tình hình tương tự: chữ i và y đứng ở đầu một từ cũng không nhất quán: khi thì viết i (ỉa, ích, ít), khi thì viết với y (y (áo), ý, ỷ, ym, yn).
Xem thế thì sang thế kỉ XVIII, viết i và y đã tương đối ổn
định khi chúng là những âm cuối kết hợp sau âm chính dài hay ngắn, khá phân
minh. Chỉ khi là nguyên âm làm âm chính trong một âm tiết thì có những lẫn lộn qua
lại, thiếu nhất quán.
3. Thế kỉ XIX:
Tài liệu chủ yếu để xem xét lối viết i và y ở thế kỉ XIX là bộ
từ điển Dictionarium Anamitico-Latinum
(Nam Việt Dương Hợp Tự Vị) của A. J.
L Taberd, in tại Serampore năm 1838 (6). Ðại để, bộ từ điển này vẫn theo bốn
nguyên tắc chính tả nêu ở trên. Dưới đây là một số từ rút ra từ bộ từ điển
Taberd:
(a) ích, im, in, ỉnh, ít, ỉu, hi, kị, khi, lí = lý, mĩ, vị, chịu, điều, huyền, quí,
quít, quyên, quyết
(b) củi, nói, ngợi, trái,
(c) ý, ỷ (thế),
yả (ỉa), yếm, (d) bay, đáy, gậy, khảy,
mày, vấy
Ðến Taberd thì khuynh hướng dễ dãi giữa i và y nguyên âm đã tăng thêm: y của nguyên tắc (c) nay thay cho i khi đứng một mình [thuộc nguyên tắc
(a) của thế kỉ XVII ], và thay thế i
trong một số trường hợp khác ở giữa âm tiết mà không có lí do. Nguyên tắc (a)
thời de Rhodes nay đã bị xáo trộn.
Sự dùng lẫn lộn giữa i
và y càng tăng dần về sau. Bộ
Dictionnaire Annamite Francais của Legrand de la Liraye (1874) theo lối viết i và y như Taberd; hơn thế, ông còn cho im =ym, kỳ dị, kỷ tị, tự kỉ, kĩ càng, bệnh lị, lý lẽ... Có thể nói
là sự hỗn loạn bắt đầu từ sự phá vỡ tính nhất quán của nguyên tắc (a) trước
tiên. Khuynh hướng đó kéo dài về sau, qua Theurel khi soạn Dictionarium Anamatico-Latinum (Tự Vị An Nam- La Tinh) (Ninh Phú, 1877). Tác giả này đã theo đúng
những lối viết không nhất quán tìm thấy ở hai bộ Taberd và de la Liraye.
Khi Huình Tịnh Của xuất bản hai tập Ðại Nam Quấc Âm Tự Vị (1895-96) (7), ông đã kế thừa sự phá vỡ
nguyên tắc (a), cho nên ông có huỷ
nhưng lại có huịch, huiên, huyện, huình,
kí = ký, kì = kỳ, li =ly, lý, khuia, khuinh, khuyết, quiên = quyên, quiển =
quyển, quít, quyết.
Vài năm sau, J. F. M Génibrel soạn Dictionnaire Annamite-Francais (Saigon,1898) (8) thì nguyên tắc (a)
và (c) đã trở nên khó phân biệt so với thời de Rhodes. Trang 330-331 cho thấy
rõ sự nhập nhằng này khi ông cho i
và y vừa có thể đứng đầu âm tiết vừa
đứng giữa: ích, ịch, iếp (cá muối), iệp=yểm, im=ym, quí, chuyền, khuyến.
Hoặc giả, mục từ K gồm toàn i nhưng
đến mục L thì có cả i lẫn y: lì,
lị, li=ly, lí=lý. Các mục từ khác cũng thế, không có sự phân định nào rõ
rệt giữa i và y như ở nguyên tắc (a) thời de Rhodes: huyên = huiên, huy, huích, khuy, khuia, khuinh=khuynh, nguích, nguít,
nguỵ, nguyên, quình, quyên, quyết...
Những trích dẫn ở cuối đoạn trên cho thấy có sự chập lẫn
cách dùng giữa i và y trong các mục từ H, KH khi viết các
âm chúm môi ui=uy và uiê=uyê, nhưng lại không có tình trạng
như thế ở các mục Q và T. Một điểm đáng chú ý nữa là âm / i / chúm môi kèm theo
âm cuối / nh / thì chỉ có một từ viết với y:
khuynh, ngoại giả chỉ có huinh, quình. Những trường hợp khác thì
dùng ui=uy: huy, khuy, quít,huích, huyên=huiên, tuỳ.
Từ những bất nhất như thế
của nhà làm từ điển -mà hầu hết là những người phương tây có thể có trình độ
rất cao về ngữ âm học- đến thói quen tuỳ tiện của người sử dụng ngôn ngữ chỉ là
một bước ngắn. Cho nên đến khi chữ quốc ngữ chính thức dùng làm thứ chữ
viết chính thức trên cả nước sau 1917 thì hầu như các sách báo đều công nhiên
chấp nhận tình trạng nước đôi của hệ thống chính tả chữ quốc ngữ, trong đó nổi
cộm là lối viết chữ i và y.
4. Thế kỉ XX:
Trước tiên là chính tả trong hai bộ từ điển có uy tín
hàng đầu, đã có ảnh hưởng lớn đối với chính tả tiếng Việt hiện đại: bộ Việt Nam Tự Ðiển của Hội Khai Trí Tiến
Ðức (1931) (9) và Hán Việt Từ Ðiển
của Ðào Duy Anh (1932) (10).
Khi biên soạn Hán
Việt Từ Ðiển, Ðào Duy Anh tỏ ra rất có ý thức tìm đặt "tiêu chuẩn và
căn cứ cho quốc văn", nghĩa là có cả tiêu chuẩn chính tả cho nó. Về mặt
chính tả, tác giả đã áp dụng bốn nguyên tắc cho i và y ra sao? Có thể
nói là ông theo đúng các lối viết theo nguyên tắc (b), (c) và (d) (bảng 1) như trước
kia. Riêng với nguyên tắc (a) thì có thể rút ra một số quy tắc mà ông đề ra rất
nhất quán: y theo sau các âm đầu / h
/, / k /, / l /, /m/, / t / và khi có chúm môi: hy, kỷ, lý, mỹ, tỵ, huy, huyễn, luyến, nguyệt... Trừ một ngoại lệ: quỉ. Quy tắc chính tả này sẽ có ảnh
hưởng rất mạnh về sau này, bởi vì số lượng từ khởi đầu với h, k, l, m,
t và những từ có / i / chúm môi
chiếm khối lượng khá lớn.
Bộ Việt Nam Tự Ðiển
của Hội Khai Trí Tiến Ðức đã không theo các quy tắc chính tả trong Hán Việt Từ Ðiển của Ðào Duy Anh. Mặc dù
ra cùng thời, bộ Khai Trí Tiến Ðức đi con đường khác hẳn. Các tác giả ra công
điển chế khá nhiều về bốn nguyên tắc chính tả đặt ra từ thời de Rhodes. Nguyên
tắc (a) đã được áp dụng chặt chẽ với i,
trừ một số trường hợp: trước hết là với âm đầu / k / và không có âm phụ cuối,
đều nhất loạt viết với y: ky, ký, kỳ, kỷ, kỹ, kỵ. (tr. 268-269).
Khi đưa các mục từ này với lối viết như thế, các soạn giả không cho biết lí do
tại sao sáu từ này lại có lối viết như thế, bởi vì mục từ L sau đó đều viết với
i: li, lí, lì, lị, (tr. 304-305). Sau
nữa là âm / i / chúm môi đều viết với uy:
huy, huỳnh, khuynh, nguýt, quỳnh. Chỉ
có một ngoại lệ là i khi viết với qu: quí,
quít. Nguyên tắc (c) của de Rhodes nay đã tỏ ra không còn xác đáng nữa, vì
cả i và y đều đứng đầu âm tiết: ỉa,
ích, ỉm, ỉu (tr. 257), y, ỵ, ỳ, yêu, yểu (258-260). Nguyên tắc (b) và (d)
thì vẫn nhất quán theo nguyên tắc đã ổn định từ thế kỉ XVIII, mà bộ từ vị
Pigneaux de Béhaine là tiêu biểu.
Nhìn chung, nguyên tắc chính tả của i và y trong bộ tự điển
Khai Trí Tiến Ðức khá nhất quán. Có thể nói là bộ tự điển này đã giữ sát nguyên
tắc chính tả (a), (b) và (d) đối với trường hợp i và y. Số lượng các từ
ra ngoài nguyên tắc không nhiều nếu so với các bộ từ điển soạn ở thế kỉ trước.
Tuy thế, một vài sai biệt nhỏ như ở mục từ K sẽ vẫn tạo điều kiện cho những kẽ
hở lớn về nguyên tắc về sau này. Bộ Việt
Nam Tự Ðiển và Hán Việt Từ Ðiển
là hai bộ từ điển giá trị, được công luận dùng nhiều; một dạo đã được bộ giáo
dục miền nam công khai chỉ thị nhà trường dùng làm từ điển tiêu chuẩn để dạy
chính tả. Do vậy ảnh hưởng của chúng sẽ rất sâu rộng đối với sự phân tán quan
điểm về chính tả tiếng Việt nửa sau thế kỉ XX.
Tiếp nối khuynh hướng muốn chỉnh đốn chính tả, Gustave
Hue ấn hành bộ Dictionnaire Annamite-Chinois-Français (Tự điển Việt-Hoa-Pháp) (1937)
(11). Lời tựa sách có đề cập vài nét về nguyên tắc chính tả về chữ i và y như sau: "Hai chữ y
và i hình như chỉ một âm, nửa nguyên
âm hay nguyên âm tuỳ trường hợp và việc dùng hai chữ này tách biệt thì không có
lí cớ nghiêm chỉnh. Do đó, để duy trì truyền thống thì chúng tôi giữ chính tả
cổ xưa." Phần từ điển cho thấy rõ tác giả giữ sát nguyên tắc (a) khi viết i ở cuối âm tiết: hi, ki, li, mĩ, quí, tị. Chính tả "truyền thống, cổ xưa"
nhắc đến trong lời tựa là nói về những nguyên tắc đã đề ra từ thế kỉ XVII. Ðiều
đáng nói ở đây là xu thế muốn điển chế lại những hiện tượng bất nhất gây ra
trong thế kỉ trước. Ở điểm này, Gustave Hue gặp gỡ quan điểm của Hội Khai Trí
Tiến Ðức.
Sau 1954, hai miền Nam Bắc đều có những công trình từ
điển mới, có những hoạt động nhằm tiến đến chính sách về ngôn ngữ nói chung và
chính tả nói riêng. Do vậy mà có những Hội Nghị Thống Nhất Ngôn Ngữ tại Sài Gòn
(1956) và Hội Nghị Cải Tiến Chữ Quốc Ngữ tại Hà Nội (1959). Cả hai hội nghị ở
hai đầu đất nước đều lên những danh sách đề nghị sửa đổi chính tả. Những đề
nghị sửa đổi ở cả hai miền thật ra cũng không vượt xa hơn những đề nghị của Uỷ
Ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ (1902) (12) về tính cách tiên phong của chúng, mà chỉ
là những thôi thúc hợp lẽ của thời đại mà thôi. Nhưng tất cả đều chỉ là những
bản đề nghị không được đưa ra công luận tìm hiểu và bàn luận; song song đó, các
đề nghị sửa đổi cũng không nhận được sự hỗ trợ của giới cầm quyền. Tất cả mọi
đề nghị sửa đổi đều bị đình hoãn, lấy lí do là vì tình hình chưa thuận tiện
(!), nên chóng rơi vào quên lãng.
Có vài công trình nghiên cứu ở hai miền có liên quan trực
tiếp đến vấn đề chính tả, nổi bật là các bộ Việt
Ngữ Chính Tả Tự Vị của Lê Ngọc Trụ (Sài Gòn, 1959) (13), Từ Ðiển Chính Tả Phổ Thông của Viện Văn
Học (Hà Nội, 1963). Việt Ngữ Chính Tả Tự
Vị giữ các nguyên tắc chính tả (b) và (d) (bảng 1) khi i và y là âm cuối của âm
tiết. Nhưng ông bất nhất trong nguyên tắc (a) khi vừa dùng i lại vừa dùng y là
nguyên âm: ỉ, dĩ, lỉ, lĩ, mĩ, nỉ, phỉ,
sĩ, tỉ, tị, vĩ, xỉ, xì -- ỷ, kỷ, lý, mỹ, tỵ. Có thể nói là về mặt chính tả
chữ i và y thì Lê Ngọc Trụ không phân minh nên đã tự mâu thuẫn với chính
mình: cùng một khuôn âm mà ông viết hai cách khác nhau: lý, vĩ ; thậm chí cùng một chữ hán việt chỉ cái mũi, ông viết tỵ (tr. V) và tị (tr. XIX). Tác giả cũng lúng túng khi dùng nguyên tắc (c), nên
ông vừa có ỉ lại vừa có ỷ. Chính tả của i và y trong quyển tự vị
này là một bước lùi so với Việt Nam Tự
Ðiển.
![]() |
Một trang sách in của Trương Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê (1963) |
Trong vòng hai mươi năm chia cắt, hai miền Nam Bắc đều có
nhiều từ điển mới ra. Tuy nhiên, không có bộ nào được soạn ra theo một phương
pháp chặt chẽ về cách chọn mục từ, chọn giải nghĩa, và phương pháp chính tả.
Chỉ riêng về phương pháp làm từ điển thôi đã cho thấy hiện tượng dẫm chân tại
chỗ nếu không nói là những bước lùi so với bộ từ điển Khai Trí Tiến Ðức. Ðối
với cách viết i và y thì lại càng bất nhất. Nói cho đúng
thì riêng trong nam, thời gian này, cũng đã có những cố gắng bứt phá thói quen
tuỳ tiện về chính tả. Những nỗ lực này bắt đầu tại một số giảng đường đại học,
một số nhà soạn sách giáo khoa có ý thức ngôn ngữ, và một số nhà văn hoá và báo
chí có quan tâm đến chính tả tiếng Việt. Trong số các học giả có ý thức kiên
trì về vấn đề chính tả ở trong nam có Hoàng Xuân Hãn, Trương Văn Chình và
Nguyễn Hiến Lê, và Trần Ngọc Ninh (14). Các vị đã làm một cố gắng can đảm là
dứt khoát khôi phục nguyên tắc (a) cho chính tả i và y trong chừng mức
mà chính tả tiếng Việt hiện đại chuẩn nhận. Trên các trang sách của các tác giả
này không hề thấy sự lẫn lộn thường gặp lúc bấy giờ. Theo sự tìm tòi chưa đầy
đủ của chúng tôi thì bốn học giả nêu trên cũng chưa hề minh nhiên bàn về quan
điểm chính tả của các vị.
Trên báo chí thì chỉ có kí giả Nguyễn Hữu Ngư là triệt để
hơn cả: ông dứt khoát bỏ nguyên tắc (c) mà xem i ở đầu hay ở giữa âm tiết đều có giá trị ngang nhau; đối với
nguyên tắc (a) cũng thế, ông xem âm i
là kí hiệu duy nhất, dù chúm môi hay không. Nguyên lối viết bút hiệu đã thể
hiện rõ quan điểm chính tả của ông về vấn đề này: Nguiễn Ngu Í (15). Ông là một trường hợp duy nhất trong làng báo
Việt Nam trước nay đã làm được việc như thế. Tiếc thay, những cố gắng của ông
không đủ để tạo nên một phong trào lớn rộng nếu không nói là ít nhiều còn bị dư
luận hẹp hòi cho là lập dị.
Sau 1975, một công trình làm từ điển tiếng Việt do Viện
Ngôn Ngữ chủ quản (16) đã tạo một bước tiến rõ rệt về các mặt của phương pháp
từ điển ngôn ngữ: số lượng các mục từ và các từ và ngữ phái sinh, cách định
nghĩa, chú thích, thí dụ. Về mặt chính tả thì ban chủ biên nêu rõ là họ theo
đúng các Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt trong các
sách giáo khoa, được ban hành theo Quyết định số 240/QÐ Ngày 5.3.1984 của Bộ
Trưởng Bộ Giáo Dục. Nguyên âm i cuối
âm tiết được viết thống nhất bằng -I
(viết hi, ki, li, mi, ti, thay cho hy, ky, ly, my, ty), trừ -uy (/ -wi /) vẫn viết -uy (luy,
tuy...) để giữ sự thống nhất với với uyên,
uyết, uyt. Trong tình trạng chính tả tiếng Việt hiện nay thì đây là một
bước cải tiến hợp lí, nên tránh được tối đa những bất nhất về phương pháp chính
tả. Vì đây chính là nguyên tắc (a) trong chính tả của chữ i và y mà đã từ quá lâu
phải chịu những xáo trộn do ảnh hưởng của những pho từ điển soạn rải rác từ de
Rhodes trở đi.
Tóm lại, chính tả của i và y đã trải qua tình
trạng bất nhất suốt một thời kì dài kể từ de Rhodes về sau. Mặc dù đã có nhiều
đề nghị sửa đổi từ 1902 đến nay, tình trạng vẫn không ngã ngũ.
TẠI SAO CÓ TÌNH TRẠNG BẤT NHẤT VỀ CHÍNH TẢ
CỦA I VÀ Y?
Chính tả của i
và y không được nhất quán vì nhiều
lí do xuất phát từ cả hai phía: người sử dụng và các giới hữu trách trong xã
hội. Dưới đây là một bảng kê các nguyên do đã được thức giả trực tiếp hay gian
tiếp nêu lên trong các cuộc bàn luận về vấn đề này:
1. Các nhà chế tác hệ thống chữ quốc ngữ:
Chữ quốc ngữ ra đời vì là một công cụ truyền giảng của
các giáo sĩ phương tây. Trong lúc sử dụng, họ đã không tránh khỏi việc dựa vào
chính tả tiếng nước họ để ghi tiếng Việt. Một thí dụ: người Pháp không đọc c / k / trước nguyên âm hẹp e, ê, i nên phải dùng k trước các nguyên âm này. Cũng thế,
khi de Rhodes viết ỉa, iếu, iên theo
như nguyên tắc (a) chẳng hạn, các bạn đồng sự của ông vốn tinh thông tiếng
Latin có thể đọc là jả, jếu, jên, vì i ở đầu âm tiết có thể đọc là j trong tiếng Latin. Vì lẽ đó, ông dùng
y trong trường hợp này [và trở thành
nguyên tắc (c)] để tránh lầm lẫn. Nhưng tiện lợi này chỉ dành cho các vị giáo
sĩ phương tây mà thôi, vì người Việt không có sự lầm lẫn đó: iê không bao giờ có thể đọc là jê cả. Sự cẩn thận của thời de Rhodes
trở thành một phiền toái cho người Việt ngày nay, vì họ đã thấy viết ỉa, iếu, iên là không quen mắt, và do
vậy là không "hợp lí"!
Trường hợp viết i
có chúm môi trong các chữ huỷ, quỹ, tuỳ,
thuý cũng có những nguyên do từ người sáng chế ra chữ quốc ngữ. De Rhodes
có viết huiẹn, quiẻn. Có thể suy từ
nguyên tắc (a) đó mà viết *huỉ, quĩ, *tuì,
*thuí được lắm chứ ! Nhưng vào thời đó đã chấp nhận i bán âm đứng cuối âm tiết (nguyên tắc (b)) nên phải đổi sang y: huỷ.
Sự bất nhất này như thế là đã kéo đi từ thời de Rhodes, mà nguyên do chỉ là vì
thiếu dứt khoát trong việc chọn kí hiệu dành cho nguyên âm / i / và một cho bán
âm / i /.
Một số tác giả trước đây thường lấy Alexandre de Rhodes
làm mẫu mực về chính tả i và y. Thật ra, những phân tích trên đã cho
thấy chính thời de Rhodes đã không nhất quán trong bốn nguyên tắc chính tả được
đúc kết trong Từ điển Việt-Bồ-La.
2. Sự bất nhất của các nhà từ điển:
Những sự bất nhất buổi đầu như đã thấy trong từ điển de
Rhodes có thể tránh được về sau, nếu như các nhà làm từ điển sau de Rhodes biết
điển chế hoá các nguyên tắc chính tả thời trước để lại. Tình hình lại hoàn toàn
trái ngược: như phần trên đã phân tích, càng về sau, các nhà làm từ điển trong
hội truyền giáo phương tây đã chỉ làm rối loạn thêm các nguyên tắc do de Rhodes
đề ra, nhất là nguyên tắc (a) càng về sau càng bất nhất.
Chỉ đến thế kỉ XX, khi các học giả người Việt tham gia
việc biên soạn từ điển và các hoạt động giáo dục, nghiên cứu về tiếng Việt, sự
nhiễu loạn trong lối chính ta chữ i
và y đã trở thành một sự an bài, và
các giới trong xã hội xem như một thực tiễn xã hội đã được công chúng chấp
nhận.
3. Thói quen tuỳ tiện của người sử dụng:
Ðòi hỏi các vị thừa sai phương tây phải chính xác về mặt chính tả
tiếng Việt thì kể ra cũng quá đáng. Kể từ năm 1865, khi chữ quốc ngữ trở thành
thứ chữ viết chính thức ở vùng đất thuộc địa Nam bộ, và nhất là từ 1917 trở về
sau, khi chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức trong khoa cử và truyền
thông trong cả nước, thì chữ quốc ngữ đã trở thành tài sản chung của quốc gia. Trong
thời Pháp thuộc, một số viên chức Pháp có trình độ tiếng Việt và cũng có nhiệt
tâm với chữ quốc ngữ, đã nhận ra hết những nét bất nhất của hệ thống chữ viết
mà tiền bối của họ đã làm ra trong chừng mức hiểu biết không thể toàn triệt như
người bản ngữ. Họ đã đi tiên phong trong việc nêu lên những đề nghị sửa đổi với
ngụ ý làm hoàn chỉnh hệ thống chữ viết Latin hoá này (12). Thế mà dường như
không thấy có một nỗ lực nhỏ gì từ các giới trong xã hội Việt Nam suốt thế kỉ
nay để góp phần kiện toàn và chuẩn hoá chữ quốc ngữ. Hiện tượng này thật khó
hiểu.
"Chữ quốc ngữ" đối với người Việt Nam chỉ là
một hệ thống chữ viết mượn từ bảng chữ cái Latin do người phương tây sáng chế
ban đầu và ban tặng cho dân ta. Ở một thời đại khác trước đó, giới trí thức
cũng đã vay mượn hệ thống chữ viết của người Hoa để tạo ra chữ nôm. Vì xem nó chỉ
là thứ chữ "nôm na, cha mách qué" mà suốt bao nhiêu thế hệ sử dụng
nó, chữ nôm chưa hề được điển chế để có thể trở thành thứ chữ viết của người
mình. Nếu so với sự chăm chút của người Nhật, người Triều Tiên, người Hoa đối
với chữ viết của họ thì giới trí thức nước ta từ xưa đến nay thật là bạc bẽo
với gia sản.
Để biện hộ cho sự lãnh đạm của học giới đối với một hệ
thống chữ viết do những người không phải là bản ngữ làm ra, các "nhà"
ngữ học thường vẫn noi theo truyền thống nói vòng vo, nói huyên thuyên chỉ để
buông lời thừa nhận là nên giữ nguyên trạng những gì người Việt chúng ta được
ban tặng! Điển hình cho những lời biện thuyết cho quan điểm như thế là bài luận
thuyết tràng giang của Cao Xuân Hạo (17). Tác giả đưa ra những lập luận kì lạ
về tính cách của hệ thống chữ quốc ngữ là không thích hợp với tiếng Việt vì chỉ
là ghi âm chứ không thể chuyên chở ý nghĩa của nó (!), nhưng rồi ông lại cho
rằng "trên bình diện thực
tiễn, dùng chữ quốc ngữ cho tiếng Việt cũng không có hại bao nhiêu, vì dù sao
nó cũng cho phép phân biệt đầy đủ các âm thanh cần phân biệt của tiếng Việt".
Ông lại xuôi dòng và nói rằng chữ viết của tiếng Anh hay tiếng Pháp cũng vô vàn
cái bất hợp lí nhưng vẫn được xem là bình thường (!). Có lẽ chính tác giả cũng
thừa biết là đưa chuyện chính tả của tiếng Anh và tiếng Pháp ra so với chính tả
chữ quốc ngữ của chúng ta là một sự so sánh rất khập khiễng (18). Những lập
luận bất nhất trong bài "báo cáo khoa học" dài lê thê kia chỉ có ý
nghĩa là mờ tối thêm một việc cần làm sáng tỏ. Trong bài "báo cáo khoa
học" nói trên, có lẽ chỉ có thể thu được một luận điểm xác
đáng của tác giả về một hiện tượng quái dị khác thuộc về chính sách ngôn ngữ
tại Việt Nam trong một thời kì rất dài: việc phiên âm ra tiếng Việt các tên
riêng nước ngoài.
Nói tóm lại, giới trí thức, nhà trường và giới truyền
thông Việt Nam trước đây đã không làm tròn trách nhiệm của mình cho việc giữ
gìn tiếng Việt được tinh xác. Tất cả đều hành xử theo lề thói tuỳ tiện, dễ dãi,
và không hề băn khoăn về hệ quả của thái độ tắc trách của mình.
4. Không có chính sách ngôn ngữ hợp lí:
Trách nhiệm này thuộc về nhà nước. Với chức năng điều
giải và tạo điều kiện cho sinh hoạt văn hoá-giáo dục được phát triển, đáng ra
các chính quyền nối tiếp nhau phải có trách nhiệm thực hiện những đề nghị của
các giới chuyên môn liên quan đến vấn đề sửa đổi chính tả hoặc cải tiến chữ
quốc ngữ. Một thí dụ điển hình: Bộ Giáo Dục miền nam chỉ thị rõ là chính tả
tiếng Việt cần căn cứ vào Việt Nam Tự
Ðiển của hội Khai Trí Tiến Ðức. Thực tế thì trường sư phạm, nhà trường phổ
thông đều không cần quan tâm đến lối viết chữ i và y ở trong bộ từ
điển đó ra sao để mà thầy giúp trò viết theo cho đúng; bên ngoài xã hội cũng
thế, có lẽ chẳng có toà báo nào, nhà in, nhà xuất bản nào có một bộ từ điển
Khai Trí Tiến Đức để giúp công chúng đọc báo, đọc sách theo một chuẩn chính tả.
Từ rất lâu, Trần Trọng Kim và các cộng sự của ông đã rất ý thức điều này khi
soạn bộ sách giáo khoa tiếng Việt vào đầu thế kỉ XX. Các vị viết trong một lời
dặn thầy cô giáo như thế này: "Chữ y gọi là y dài là có ý
lấy hình chữ viết dài và âm đọc cũng dài bằng hai chữ i thường (?), tuy vậy lúc đọc cũng gọi là i mà thôi. Chữ y dài thường hay dùng lẫn với chữ i ngắn, không lấy gì làm nhất định, như
lí thường hay viết là lý, mĩ
viết là mỹ." (19)
Thiếu một chính sách ngôn ngữ hữu hiệu cho nên mới xảy ra
tình cảnh là cả hai chính quyền Nam và Bắc trong thời kì phân chia, và chính quyền của đất nước thống nhất sau 1975, có thể tổ
chức đại hội này hội nghị kia, lắm khi rất rầm rộ, lớn lao để gọi là thống nhất ngôn ngữ nhưng trên thực tế thì tất cả đều đã tránh né việc thống
nhất thật sự. Kết cục là những đợt sửa đổi chính tả chữ quốc ngữ đều không
thành vì nó không tiến xa hơn những trò khoa trương nặng tính tuyên truyền hơn
là học thuật. Trong số những nhà chính trị có nhiệt tâm với việc giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt có lẽ chỉ có một người: Phạm Văn Đồng. Trong bao
nhiêu năm làm Thủ tướng, ông có nhiều bài phát biểu bày tỏ sự quan tâm của ông
đối với vấn đề. Ông nói đến nhiều hiện tượng sai quấy làm vẩn đục tiếng Việt
trong xã hội miền bắc trước 1975, có nhiều chuyện có thể cười ra nước mắt. Những
bài nói và viết ấy về sau được in ra tập Giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt được in lại và bổ sung nhiều lần từ trước
và sau 1975. Những trăn trở bứt rứt của tác giả cũng chỉ được đến thế thôi.
Không mảy may tác động đến hiện thực quanh ông hằng ngày.
Một thời kì dài như thế chỉ còn đọng lại mấy công phu của
vài cá nhân đi tiên phong (14), nhưng đã không hề được công luận dành cho sự chú ý
và hỗ trợ cần thiết để đẩy nhanh việc chuẩn hoá chính tả tiếng Việt.
MỘT VÀI ÐỀ NGHỊ
Ðứng trước tình hình như thế, chúng ta bây giờ có thể làm
gì được không? Trước kia, các nhà ngữ học trường phái miêu tả Mĩ cho rằng ngôn
ngữ là hiện tượng sinh hoạt tự nhiên cuả xã hội, và vì thế nhà ngữ học chỉ có
thể miêu tả chúng mà không thể đặt vấn đề "sưả đổi", "cải
cách". Nói cách khác, hãy để ngôn ngữ thuận tự nhiên. Cái gì công chúng đã
chấp nhận kinh qua thời gian thì xã hội phải chấp nhận nó là của mình.
Cần nói ngay là một quan điểm như thế là máy móc và lầm lẫn.
Trước hết, không ai nói gì đến chuyện chỉnh đốn, sửa đổi ngôn ngữ. Tiếng nói
của cha ông đã hình thành qua chiều dài lịch sử cả nghìn năm thì vẫn còn đó.
Công chúng đã sử dụng tiếng Việt như một tài sản ngôn ngữ chung cho cả nước.
Toàn xã hội đã, đang và vẫn sẽ chuẩn nhận nó là tài sản của xã hội. Trước năm
1917, trên đất nước ta vẫn còn dùng chữ Hán trong khoa cử, trong hành chính. Sinh
hoạt văn hoá thì sử dụng chữ Hán và chữ Nôm để biểu đạt. Chữ Nôm chỉ là hệ
thống chữ viết bên lề cho nên nó chưa có điều kiện để chuẩn hoá. Vì vậy cho nên
cùng một từ có thể một nhà văn ở miền bắc có thể viết khác với một nhà văn nhà
thơ đàng trong. Tình trạng chữ quốc ngữ cũng tương tự: suốt từ khi các giáo sĩ
phương tây chế tác ra nó cho đến khi nó được nhà nước thuộc địa quy định là chữ
viết chính thức, thay cho chữ Hán trong khoa cử, trong giáo dục cả nước năm
1917, chưa bao giờ chữ quốc ngữ có điều kiện được kiện toàn. Tuỳ mỗi nhà soạn
từ điển, tuỳ mỗi nhà giáo ở những trường đào tạo khác nhau mà chữ quốc ngữ có
dung mạo không giống nhau. Mãi cho đến khi đất nước độc lập, năm 1945, chữ quốc
ngữ phải lao ngay vào vai trò chữ viết chính thức cho toàn xã hội. Sách, báo,
trường học đều lao vào cuộc chạy đường dài mà không hề được có thời gian chỉnh
bị, kiện toàn cho nó. Chữ quốc ngữ cho đến nay, suốt hơn ba trăm năm trời chưa
hề có điều kiện hoàn thiện nó thì ai trong xã hội ngày hôm nay có thể bảo rằng
xã hội hãy chấp nhận hệ thống chữ quốc ngữ là một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh?
Vì tình hình cụ thể như thế của chữ quốc ngữ mà suốt từ 1902 đến nay đã có rất
nhiều nỗ lực muốn góp phần chuẩn hoá chính tả chữ quốc ngữ.
Chúng tôi không tán thành quan điểm dễ dãi là cứ để chữ
quốc ngữ trôi dạt như hơn ba trăm nay như thế, nên thử đặt lại vấn đề
"tiêu chuẩn hoá" một số vấn đề chính tả. Thực ra, việc cần chuẩn hoá
chính ta tiếng Việt không phức tạp, không nhiều vấn đề như người ta tưởng. Cần
nói ngay là hệ thống chữ quốc ngữ có ưu điểm khá lớn là tương ứng gần như một
đối một giữa tiếng nói và chữ viết. Sách báo in vào nửa đầu thế kỉ XX tại Hà
Nội hay Sài Gòn đều có những lối viết dựa trên phát âm địa phương; nhưng đó là
hậu quả lối nói và lối viết địa phương trong điều kiện hoàn cảnh tự phát. Chỉ
từ khi đất nước thống nhất, một vài hiện tượng sai chệch còn tồn đọng của chính tả
chữ quốc ngữ thì không thể gọi là nhiều, mà nổi trội là chuyện chữ i và y.
Hưởng ứng các đề nghị cuả những người đi trước, chúng tôi
đề nghị nên tiêu chuẩn hoá chính tả hai chữ i và y trong chừng mức
ít xáo trộn nhất. Giải quyết được vấn đề chính tả chữ i và y sẽ giải gỡ được
tính bất nhất của chính tả tiếng Việt hiện đại rất nhiều.
Hiện nay, ở thời điểm này, chính tả hai chữ i và y đã có những khuynh hướng khác biệt nhau về chi tiết đối với
nguyên tắc (a) từ thời De Rhodes. Sách báo tiếng Việt trong nước và hải ngoại
đều cho thấy tính cách bất nhất khi viết nguyên âm / i /. Người sử dụng chỉ lặp
lại một tập quán chính tả đã quen thuộc với mình, nên chi có hiện tượng tồn tại
song đôi các lối viết như: sĩ / sỹ, tị
(nạn)/ tỵ (nạn), mĩ / mỹ, kí / ký... Ngoại trừ sự khác biệt này, có thể nói là cách
viết chính tả chữ i và y hiện nay có hệ thống mạch lạc trong
chính nó. Bảng 2 dưới đây phác lại hệ thống đó, dựa trên mối quan hệ ngữ âm và
mặt chữ; qua đó có thể nhận ra những mối quan hệ ngữ âm trong hệ thống, và từ
đó có thể định đoạt cách viết i hay y cho phù hợp với hệ thống:
Bảng 2
Ðể đưa hệ thống mô tả ở Bảng trên vào việc thực hành
chính tả cách viết hai chữ i và y, có thể cụ thể hoá thành những quy
tắc như được ghi trong Bảng 3 dưới đây:
Chỉ viết y trong những trường hợp sau đây:
(1)
khi tổ hợp âm /ie/ ở đầu âm tiết. Ví dụ:
yên, yêu, yết
(2)
trong các tổ hợp âm chúm môi /ui/ và
/uie/.
Ví
dụ: uy, nguy, tuy, quýt,chuyên, khuya
(3)
ở sau âm ngắn /ă/ và âm ngắn /â/. Ví dụ:
cay, dày, đẫy, mây
Chỉ viết i trong những trường hợp sau đây:
(4)
khi nguyên âm / i / làm âm chính của âm
tiết.
Ví
dụ: (âm) ỉ, (ầm) ĩ, kí, sĩ, tị, kim, vịnh
(5) khi âm cuối / i / đi sau nguyên âm thường/dài.
Ví dụ: củi, đói, hời, nòi, trai
Bảng 3
Năm quy tắc trên là đúc kết từ những điểm đã được dùng làm phương châm chính tả trong khi soạn từ điển, được dùng trong sách báo, và được giảng dạy trong nhà trường.
Những quy tắc trên có còn trung thành hay đã vượt bỏ bốn
nguyên tắc chính tả thời de Rhodes? Câu trả lời là: Có. Hơn thế nữa, năm quy
tắc trên đây đã tập đại thành từ những kinh nghiệm điển chế các nguyên tắc sử
dụng ngôn ngữ qua bao đời để cho bốn nguyên tắc đề ra từ thời De Rhodes thêm
hợp lí, nhất quán. Một điểm lợi trên thực tế là năm quy tắc nêu trên đã loại bỏ
được rất nhiều những trường hợp ngoại lệ mà bốn nguyên tắc cũ tạo ra. Duyệt lại
năm quy tắc trên, chúng ta có thể hợp lí hoá những trường hợp trước kia bị xem
là lạc ra khỏi quy tắc:
Quy tắc 1 loại bỏ được những trường hợp trước đây có
người muốn triệt để dùng i trong tổ
hợp âm / ie /; chẳng hạn: iêu dấu, iếu
kém, niêm iết... Tất nhiên là nếu giữ được đúng nguyên tắc một âm một kí
hiệu thì phải như thế. Nhưng hiện tình chính tả tiếng Việt chưa chấp nhận xu
hướng này.
Quy tắc 2 loại khỏi chính tả tiếng Việt những kiểu áp
dụng chính tả nay đã không còn được chấp nhận dù cho chúng có thể đúng nguyên
tắc kí âm: huiện, quiển, huỉ hoại, ma
quỉ, thuí kiều, thuí nga... Quy tắc này có thể giải toả những lúng túng
thường gặp trước đây khi chúng ta tách âm / ui / (viết là uy) trong âm tiết có âm đầu / k / (viết là q) khỏi hệ thống.
Quy tắc 3 và quy tắc 5 không gây ra những tranh luận nào
về vai trò của i và y âm cuối.
Quy tắc 4 là mục tiêu của nhiều tranh luận từ xưa nay.
Những quy tắc khác đã giúp cho quy tắc này trở nên rõ ràng hơn. Với quy tắc 4
thì ta đã có chuẩn mực để giải quyết những trường hợp chữ i và y đơn lập thành một
âm tiết. Số lượng âm tiết có i đơn
lập là sáu từ: (âm) i, (âm) ỉ, (ầm) ĩ, (đi) ị, (đằng) í, (đứng) ì. Khi chấp nhận chuẩn là i
như thế thì những từ dùng y đứng một
mình có thể xem là ngoại lệ, và số lượng của chúng không nhiều lắm, chỉ có ba: y , ý , ỷ. Cả ba đều là những từ hán
việt, và mục từ này không có các tiếng có giọng huyền, nặng và ngã. Cũng trong
khuôn khổ quy tắc này, cần nhắc đến một ngoại lệ khác: (giặt) gỵa. Tổng cộng chỉ có bốn từ là ngoại
lệ.
Bảng đối chiếu dưới đây có thể giúp nhận ra khuôn dạng
của nguyên tắc chính tả chữ i và y như đã ghi trong Từ điển Việt-Bồ-La so với hiện nay.
Tiếng Việt ở thế kỉ XVII Tiếng Việt hiện đại
(a)
phần âm chính của âm tiết quy
tắc (4) và (2)
(b)
âm cuối sau nguyên âm dài quy
tắc (5)
(c)
đứng đầu âm tiết quy
tắc (1)
(d) âm
cuối sau nguyên âm ngắn quy
tắc (3)
Bảng 4
Những phân tích trên đây nhắm mục đích duyệt lại một vấn
đề nhỏ nhưng lại khá phức tạp. Vấn đề chính tả một nguyên âm không phải là
chuyện lớn. Nhưng vấn đề đã trở thành phức tạp ngay từ thế kỉ XVII vì có một số
lẫn lộn giữa các âm vị khác nhau (trong trường hợp chúng ta đang bàn đây thì là
giữa nguyên âm / i / và một bán âm ở cuối âm tiết), hoặc là dùng nhiều kí hiệu
khác nhau để ghi một âm vị (trong trường hợp này là hai chữ cái dùng để ghi một
âm / i /, và cũng hai chữ cái ấy để ghi bán âm trong hai hoàn cảnh khác nhau.
Ðầu mối của sự rắc rối là từ đấy.
Cứ sự thường thì không thể giải quyết thật ổn
thoả vấn đề chập lẫn như thế chỉ bằng những giải pháp cục bộ. Trên lí thuyết,
có thể giải quyết vấn đề i và y qua giải pháp triệt để nhất và lí
tưởng nhất, dựa trên nguyên lí một âm hiệu có một kí hiệu tương ứng. Nhưng đấy
lại là giải pháp bất khả, vì ngôn ngữ là một công cụ xã hội, và đời sống của nó
tuỳ thuộc vào sự ý thức và chấp nhận của xã hội. Những đề án cải tổ chữ quốc
ngữ hoặc thống nhất ngôn ngữ cần quan tâm đến thói quen của xã hội để giúp điều
chỉnh mà không gây nên những xáo trộn đối với xã hội.
Ðộc giả có thể nghĩ rằng chúng tôi quá thiên về mặt lịch
đại (diachonic), nhưng chúng tôi tin là hướng tìm tòi như thế không hề có tính
cách khảo cổ, mà chỉ muốn qua đó để nhận diện rõ hơn về tính lịch sử của những
hiện tượng bất nhất hiện nay. Vì sự bất nhất đã hiển nhiên và có nguyên do cụ thể của nó. Những tìm tòi vưà
kể sẽ có ý nghiã cho những ai có trách nhiệm (bao gồm: những người quản lí vấn
đề chính sách ngôn ngữ quốc gia, báo chí truyền thông & nhà xuất bản, và
nhà trường các cấp) để góp phần vào tiến trình chuẩn hoá ngôn ngữ.
Có thể trong tương lai xa, khi có những cải cách triệt để
chính tả chữ quốc ngữ, năm quy tắc kia sẽ thay đổi chăng. Nhưng đó là chuyện về
sau. Trong điều kiện hiện nay, năm quy tắc đó có thể rút xuống mức thấp nhất
những rối rắm về chính tả chữ i và y mà nguyên nhân chính là việc dùng một
đồ vị để ghi hai âm vị khác hẳn nhau: i/y đều dùng để ghi nguyên âm / i / và
bán âm cuối / j /. Sự lẫn lộn này đã có từ thời De Rhodes chứ không phải hoàn
toàn là do người đi sau.
Những Quy Ðịnh về chính tả tiếng Việt năm 1980 và năm
1984 là những quy định tương đối ổn thoả nhất sau một thời thử nghiệm dài lâu.
Những thay đổi đề ra trong các bản Quy Ðịnh vừa nhắc ở trên đã thừa nhận một
nhu cầu cần sửa đổi vừa phải để chính tả được nhất quán hơn. Quy Ðịnh chính tả
như thế chính là sự công nhận một công phu tập thể, công nhận những giá trị của
quan điểm chính tả mà Việt Nam Tự Ðiển
của Hội Khai Trí Tiến Ðức và một số học giả đã bền bỉ mở đường trước đây. Ðấy
là thành quả mà thế kỉ XX đã dành cho chữ quốc ngữ, sau khi đã trải một quá
trình tích luỹ kinh nghiệm lâu dài. Chuyện còn lại bây giờ là sự tiếp nối về
thế hệ mai sau.
Ðoàn Xuân Kiên
(Tập san Định Hướng 15 (Mùa Đông 1998), tr. 96-111)
(1) Linh mục Nguyễn
Khắc Xuyên đã nhiều lần xem xét vấn đề này. Xem: Nguyễn Khắc Xuyên, "Chung
quanh vấn đề thành lập chữ quốc ngữ". Văn Hoá nguyệt San, số
39 (1959), tr.167-177 và số 48 (1960), tr. 1-14; "Nguồn gốc hai chữ i và y
trong quốc âm", Văn Hoá nguyệt San, số 61 (1961), tr. 519-526;
và gần đây nhất là bài "Về i hay y trong chính ta Việt ngữ", Văn
Học (USA), số 75 (th. 7, 1992), tr.3-13.
(2) Phạm Thị Tú Minh,
Nguyễn Văn Thế & Ðoàn Xuân Kiên (1998): Học Kĩ Ðọc Ðúng -
Sách Hướng Dẫn I. Tilburg: Zwijsen.
(3) Alexandre de
Rhodes (1651), Dictionarium Annamiticum-Lusitanum et Latinum. Rome.
Bản dịch của Viện Khoa Học Xã Hội, Sài Gòn, 1991, tr. 7.
(4) Xem bản chụp các
văn bản của Gaspar D'Amaral (tr. 134), Văn Tín và Bento Thiện (tr. 139 trở đi)
trong: Đỗ Quang Chính (1972): Ch.4: "Tài liệu viết tay của hai người
Việt Nam" (1659) in Lịch sữ chữ quốc ngữ 1620-1659. Saigon:
nxb. Ra Khơi.
(5)
Xem: Philiphê Bỉnh (1793): Những bài thơ trong Nhật trình kim thư khất
chính Chúa giáo. Bản phiên và chú thích của Đoàn Xuân Kiên. Định Hướng tùng
thư, 2004; Pigneaux de Béhaine (1773): Dictionarium
Anamitico-Latinum. Bản chụp in của Archives des Missions Étrangères
de Paris, 2001).
(6)
A. J. L. Taberd (1838): Dictionarium Anamitico-Latinum. Serampore.
(Bản chụp in của Nxb. Văn Học & Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Sài Gòn,
2004)
(7)
Huình Tịnh Paulus Của (1895-1896): Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (2
Tomes). Impremerie Rey, Curiol & Co., Saigon.
(8)
J. F. M. Genibrel (1898): Dictionnaire Annamite-Francais.
Imprimerie de la Mission à Tân Định, Saigon.
(9)
Ban Văn Học, hội Khai Trí Tiến Đức (1931): Việt Nam Tự Điển.
Imprimerie Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội.
(10) Đào Duy Anh & Hãn Mạn Tử
(1932): Hán Việt Từ Điển Giản Yếu. Imprimerie Tiếng Dân, Huế.
(11) Gustave Hue (1937): Dictionnaire
Annamite-Chinois-Français. Imprimerie Trung Hoà, Saigon.
(12) Xem: Compte-rendu du
premier Congrès international des Etudes d'Etrême-Orient. BEFEO,
t.III, (1903) tr. 126-127. Cũng có thể xem tóm tắt bản đề nghị này trong:
Nguyễn Bạt Tuỵ (1949), tr. 10-12.
(13) Lê Ngọc Trụ (1959): Việt ngữ chánh
tả tự vị. Nxb. Thanh Tân, Sài Gòn.
(14) Chúng tôi ghi lại đây một danh mục không đầy đủ các sách in và bài đăng báo theo ý hướng chuẩn hoá chữ quốc ngữ, cụ thể là lối viết chữ i và y của bốn vị tác giả của Miền Nam trong thời chia cắt đất nước: Hoàng Xuân Hãn (1964): Bích
Câu Kì Ngộ. Huế: Nxb. Đại Học, và các bài in trong tập san Sử Địa (Sài
Gòn) thập niên 1970, tập san Khoa Học Xã Hội (Paris) thập niên
1980; Trương Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê (1963): Khảo Luận Về Ngữ
Pháp Việt Nam. Huế: Nxb. Đại Học, và các bài in báo của hai vị trong tạp chí Đại Học (Huế), tập
san Văn, Tân Văn (Sài Gòn), Tư Tưởng (Sài Gòn) thập
niên 1970; Trần Ngọc Ninh (1972): Đức Phật Giữa Chúng Ta. Sài Gòn:
Nxb. Lá Bối, và các bài báo của ông in trên tạp chí Bách Khoa (Saigon)
thập niên 1970.
(15) Nguiễn Ngu Í (1965): Sống Và Viết... Nxb. Ngèi
Xanh, Sài Gòn.
(16) Viện Ngôn Ngữ Học (2000): Từ điển tiếng Việt.
Nxb. Trung Tâm Từ Điển Học, Hà Nội.
(17) Cao Xuân Hạo (1995), Báo cáo đọc tại Hội nghị "Chữ
quốc ngữ và sự phát triển của văn hoá Việt Nam", Trường Đại học Tổng
hợp, TP Hồ Chí Minh, in lại trong Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm, ngữ
pháp, ngữ nghĩa. nhà xuất bản Giáo Dục, TP Hồ Chí Minh, 1998.
(18) Tiếng Anh chẳng hạn đã do chính người bản ngữ hình thành
qua lịch sử cả nghìn năm. Đến thế kỉ XII, nó đã trở thành ngôn ngữ văn hoá,
đánh dấu bằng tác phẩm The Canterbury Tales của Geoffrey
Chaucer; kế đó là một đỉnh cao khác ở thế kỉ XVI: kho tàng kịch bản và thi ca
do William Shakespeare viết. Đến thế kỉ XVIII, nhà từ điển đầu tiên của nước
Anh là Samuel Johnson đã đặt dấu mốc quan trọng cho việc chuẩn hoá tiếng Anh.
Từ đó, theo luật biến thiên, tiếng Anh có sự sai chạy giữa tiếng nói và chữ
viết, nhưng đó là sự thay đổi tất yếu qua thời gian để trở thành điều mà người
ta gọi là những "bất hợp lí" trong tiếng Anh.
(19) Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc & Đỗ
Thận (1917): Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Sách Tập Đọc và Tập Viết) - Lớp
Đồng Ấu. Nha Học Chính Đông Pháp, Hà Nội, tr. 8.
No comments:
Post a Comment