Những cánh mộng dở
dang
Tháng 4/1970, Sài Gòn
lại trải qua những ngày bất ổn định. Trường đại học đóng cửa vì bãi khoá. Đường
phố đầy bóng cảnh sát, có nơi bị phong toả kẽm gai chống biểu tình.
Tôi có thì giờ suy
nghiệm lại những gì thu hái được từ bốn năm dùi mài ở khuôn viên hai ba trường
đại hoc. Và thấy là ít ỏi quá. Một năm say mê với những bài giảng tại Vạn Hạnh
còn để lại nhiều hứng thú nội tâm. Bốn năm lê la các giảng đường Văn Khoa và Sư
Phạm không để lại gì nhiều trong trí. Chắt lọc lại thì cũng có vài kỉ niệm đáng
nhớ. Một vị thầy đáng kính thì chỉ vào đọc lại những gì ông viết trước và đã in
ra sách mà tôi thì là con mọt sách đã nghiến chúng từ trước khi vào lớp của thầy.
Một vị khác dạy văn học sử VN áp dụng rất máy móc vụng về quan điểm "thế hệ"
mà tôi đã được biết qua bản dịch cuốn sách của Albérès, đã khiến cậu bé 19 tuổi
phóng bút một bức thư dài gần 20 trang pelure gửi thầy, xem như kết toán khá sớm
một khoá giảng trọn năm Dự bị. Một vị thầy khác thật đáng nhớ qua phong thái
khoan thai mặc dù mặt mũi hôm nào cũng đỏ gay như say rượu, lừ đừ xuống xe xích
lô, vào lớp là nối ngay bài giảng từ tuần trước, nhưng không hề có bài soạn sẵn
trong tay.
Tôi trân trọng những giờ học quý hiếm với những vị thầy cổ học mà
trí nhớ còn minh mẫn như chưa hề lão hoá so với tuổi đời các vị; các thầy như
những bộ từ điển sống về Việt học, Hán học, văn hoá đông phương mà thế hệ chúng
tôi còn may mắn thụ giáo. Tôi trân quý tình thầy trò mà một nhà ngữ học tôi nể
trọng từ khi đọc sách thầy ở Đà Nẵng đã ưu ái đối với một sinh viên trẻ; thầy
đã cho tôi thừa thụ kiến thức từ kho sách nhỏ nhưng chắt lọc về ngữ học hiện đại
ở thời điểm những năm 70...
Rốt lại thì kỉ niệm về
bốn năm ở SG chỉ là những ân tình. Nhìn về con đường tôi sắp đi tới, bỗng thấy ngán
ngẩm vì những bất cập của nó. Hai bài viết dưới đây là kết quả của những suy
nghĩ ấy. Nó đưa đường cho những cao vọng về sau này. Có thể gọi những ước vọng
của thời tuổi trẻ ấy là những cánh mộng dở dang khi diều đứt dây, khi rồng mất
mây...
Giờ đây, sau 48 năm, đọc lại, nhiều ý kiến của chàng tuổi trẻ tỏ rõ sự non nớt, ảo tưởng. Dầu vậy, chúng vẫn có thể thực chứng cho một tấc lòng son gửi lại cho những người đang tới...
ĐXK
Quốc Văn Trong Học Đường
Lê Nguyên Thuỵ
Bầu không khí sinh hoạt giáo dục bấy lâu
nay được khuấy động không ngớt; từ cuộc phỏng vấn về cải tổ giáo dục của Tổng hội
Sinh viên Sài gòn (1) đến một vài thay đổi trong lãnh vực giáo dục của nhà nước,
tất cả như một "biến cố" khiến những người bàng quan nhất cũng phải chú
tâm đến. Người ta bàn tán với nhau về chuyện thay đổi hệ thống giáo dục cũ sang
hệ thống 12 năm; người ta bàn tán với nhau về trường trung học tổng hợp đang được
thí nghiêm tại vài địa phương; người ta bàn về những dự án cải tổ chương
trình...
Chúng tôi thiết nghĩ dù cho cải tổ gì đi
nữa thì cũng không gì cấp thiết bằng cải tổ nội dung của công tác giáo huấn,
nghĩa là vấn đề chương trình học vẫn là vấn đề hàng đầu. Nghĩ thế nên chúng tôi
không quản tài sơ trí mọn, mạnh dạn góp ý với những vị có thẩm quyền trong giơi
giáo dục một vài ý nghĩ của chúng tôi về vấn đề quốc văn trong học đường.
I. TÌNH TRẠNG QUỐC VĂN BÂY GIỜ
Dù thế nào đi nữa, quốc văn vẫn là môn học
căn bàn để cho người Việt thành người Việt; thế mà lâu nay, vì lẽ này lẽ nọ, quốc
văn bị bỏ bê một cách não nề. Cứ đọc những bài luận văn của học trò bây giờ là
thấy ngay học trò bây giờ xa lạ với tiếng mẹ đẻ biết chừng nào. Nguyên do của sự
tệ hại ấy thật phức tạp, nhưng đại khái có thể quy vào những lẽ sau đây:
1.
Chưa quan niệm nghiêm chỉnh thế nào là tiếng
Việt và thế nào là Việt văn. Đây
là một tiền đề căn bản mà hầu hết các giáo sư quốc văn đều vô tình hay cố ý
quên lãng; bởi lẽ phải có một trình độ hiểu biết đầy đủ về tiếng Việt mới có thể
học Việt văn được. Hiện nay trong chương trình trung học chưa thấy nhấn mạnh về
điểm đó. Giáo sư thì thường không dám đặt vấn đề đó ra vì lẽ rất phiền toái;
thành thử học sinh cứ phải nghe thầy rung đùi ngâm thơ cổ kiểu như thơ Bà Huyện
Thanh Quan, mặc dù chúng chẳng thấy thú vị gì.
2.
Chương trình xếp đặt không hợp lý: hiện nay, sự phân phối chương trình học quốc
văn vẫn coi như dừng lại ở mức khởi hành (chương trình Hoàng Xuân Hãn, 1945);
có thay đổi chăng thì cũng chỉ là những thay đổi cục bộ, chưa đi đến đâu cả. Chẳng
hạn, riêng các tác giả thuộc thời kỳ văn học tiền bán thế kỷ XIX thôi mà học
trò phải học đến hai lần (một ở lớp đệ tứ và một ở lớp đệ nhị); trường hợp ba
tác giả thuộc văn đoàn Tự Lực được đưa vào chương trình lớp đệ nhị cũng là đề
tài đáng nói, vì lẽ: nếu muốn học sinh hiểu biết về văn học mới thì chừng ấy
tác giả chưa gọi là đủ, nếu muốn học sinh hiểu biết về vai trò cách mạng của Tự
Lực Văn Đoàn thì càng nên xét lại.
3.
Thiên trọng về giảng văn: từ khi vào lớp đệ thất cho đến khi thi tú tài I, học
sinh thường bị nghẹt thở vì sức nặng của những bài văn, nhất là những bài cổ
văn chi chít chú thích chữ cổ và điển tích. Hầu như thì giờ học quốc văn đều dồn
cả vào học cổ văn, khiến cho học sinh ngỡ là văn chương Việt Nam chỉ có thế thôi. Vì
quan niệm học quốc văn là học giảng văn nên học sinh ít được hướng dẫn cách viết
một câu cho "đúng mẹo", viết một lá thư cho đúng kiểu, làm bài luận
có trật tự.
4.
Không cập nhật hoá chương trình quốc văn: Đa số các học sinh ở cấp Tú tài, kể cả
ban văn chương, khi rời khỏi trường học đều rất mù mờ về kiến thức văn chương
hiện đại của nước nhà. Họ như bị đẩy lùi lại quá xa trước nền văn
chương sống đang có mặt trên đất nước họ. Đầu óc họ chật ních những Nhị thập tứ hiếu, Gia huấn ca, Lục Vân Tiên,
Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Công Trứ... Cùng lắm thì có thể kể thêm Phạm
Quỳnh, Tự Lực Văn Đoàn. Ở đây tưởng cũng nên nhắc lại điểm độc đáo của những
người đưa Tự Lực Văn Đoàn vào trường trung học từ rất sớm. Dấu vết hiển nhiên
là những chương sách trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm. Kể từ
khi ấy đến nay đã gần ba mươi năm rồi mà
chương trình vẫn còn dẫm chân tại chỗ. Quan niệm cho rằng chỉ nên dạy cho học
sinh những tác giả đã trở thành "cổ điển" chỉ là quan niệm lười biếng
của những giáo sư lười biếng mà thôi.
5.
Thiếu giáo sư có khả năng: Hiện nay, việc đào tạo giáo sư quốc văn các lớp
trung học đều giao cho các Đại Học Sư Phạm. Những sinh viên được huấn luyện để
trở thành thầy giáo quốc văn thường phải đi nghe giảng trung bình 24 giờ mỗi tuần,
gồm có: 8 giờ về cổ học (trong số có 2 giờ chữ nôm và 4 giờ hán văn) và 8 giờ
kiến thức chuyên môn về việt học, và số giờ còn lại dành cho ngành chuyên nghiệp
(sư phạm). Đại khái, chương trình vừa nặng nề vừa vô bổ cho một giáo sư trung học
vì số giờ dành cho cổ học chỉ có mỗi mục đích: để thử thách sinh viên trong kỳ
thi lên lớp cuối năm. Thực tế chứng minh rất rõ ràng là: hầu hết những sinh
viên gốc Tàu và những sinh viên Việt thuần tuý không biết gì về văn chương Việt
Nam lại là những sinh viên đậu cao hơn những sinh viên cặm cụi đọc sách. Nói thế
nghĩa là lối tổ chức thi tuyển cùng lối phân phối chương trình học còn quá nhiều
sơ hở, thiếu sót, không đánh giá đúng mức khả năng sinh viên.
Với số vốn èo uột về Việt học,với trình
độ Việt ngữ chưa đủ để nói chuyện, thử hỏi các sinh viên khi ra trường sẽ xoay
xở làm sao với đám học trò đệ nhị cấp? Số vốn Hán văn (văn cổ) còn có đôi chút
đắc dụng khi soạn bài giảng các tác giả cổ điển; nhưng với các tác giả cận/hiện
đại thì sao?
Chính thái độ tắc trách của những vị
giáo sư Đại Học Sư Phạm đã tiếp tay cho bệnh ấu trĩ của các giáo sư trung học
trẻ.
II. MỘT VÀI ĐỀ NGHỊ
1. Quan niệm vấn đề dạy quốc văn và dạy quốc ngữ
Không thể lẫn lộn việc dạy văn chương Việt và dạy tiếng Việt, nhất là đối với học sinh các
lớp nhỏ, chưa xa thời còn học tiểu học là mấy. Với những học sinh nhỏ tuổi, điều
cần thiết là cung cấp cho chúng một kiến thức về Việt ngữ khả dĩ giúp chúng một
cách hữu hiệu trong đời sống hằng ngày: giao thiệp, thư tín... Chỉ dành phần
văn chương Việt cho các lớp lớn mà thôi.
Khi đã quan niệm đứng đắn thế nào là học
tiếng Việt và thế nào là học văn Việt thì công việc giảng dạy của giáo sư mới bớt
lúng túng, và học trò mới học đến nơi đến chốn được. Thật là phí công cho cả thầy lẫn trò, với số
tuổi trung bình chưa quá 13, cứ phải nghe mãi những câu thơ "sấm"
trong Bích câu kỳ ngộ chẳng hạn, rặt
những điển cố cùng mỹ từ pháp hóc búa.
2.
Duyệt lại toàn bộ lịch sử văn học Việt Nam: công việc này không thể bỏ quên được.
Từ khi tập Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm (2) ra đời đến nay đã hơn
25 năm. Trong khoảng thời gian này đã có rất nhiều tài liệu được phát hiện, làm
đảo lộn những kết luận của cuốn sách trên. Do vậy, việc duyệt soát lại các tài
liệu cũ là bước cần thiết mở đầu cho việc soạn thảo một khoá bản cho bậc trung
học. Vả lại chỉ khi nào có một khoá bản nhất định, công việc phân phối chương
trình cho các lớp mới tránh được nạn xào xáo vô trật tự như hiện nay.
3.
Với các lớp nhỏ (3), công việc giảng dạy cần chú trọng đến việc hướng dẫn học
sinh cách viết đúng một câu văn, viết nổi bài luận miêu tả và viết thư một cách
có trật tự. Công việc giảng văn chỉ nên chú trọng các bài văn xuôi giản dị của
các nhà văn cận, hiện đại. Ngoài ra, chính tả và ngữ pháp cũng cần phải xét lại:
cần phối hợp bài học ngữ pháp với bài chính tả để tạo cơ hội cụ thể cho học
sinh dễ thấu đáo. Vấn đề cung cấp số vốn tiếng Hán Việt cũng nên bắt đầu từ lớp
6; tuy nhiên, học tiếng Hán Việt không có nghĩa là phải học chữ Hán như quan niệm
phổ thông từ trước đến giờ.
4.
Cần đặt lại ranh giới hai ban C và D ở bậc trung học chuyên khoa. Nên khuyến
khích học sinh lựa chọn ban theo đúng khả năng của chúng. Chúng tôi nghĩ nên gọi
ban C là ban văn chương hiện đại và ban D là ban văn chương cổ điển. Phân chia
như vậy có điểm lợi là có thể giải quyết được vấn đề cập nhật hoá chương trình
quốc văn (ban C) cũng như có thể giải quyết được vấn đề học hỏi văn chương cổ
điển (ban D).
Riêng với ban C và D chương trình văn
chương cần nâng lên lớp 12, ngõ hầu giúp học sinh được hoàn tất công việc học hỏi
văn chương nước nhà của chúng một cách đầy đủ. Như vậy, trong ba năm liên tục,
học sinh được hoàn toàn tự do và hứng thú học hỏi văn chương; do vậy kết quả
thu thập được bền và phong phú hơn là ép buộc chúng phải học dông học dài trong
suốt 7 năm trung học với thái độ uể oải, tắc trách.
5.
Hướng dẫn thấu đáo cách suy luận: với lớp tuổi trung bình từ 14 đến 16, học
sinh thường tỏ ra ham thích lý luận. Đây là thời gian tốt nhất để hướng dẫn
chúng một cách đầy đủ những phương pháp suy luận khả dĩ giúp đỡ chúng thành
công trong các bài văn nghị luận. Về giảng văn, thiết tưởng những bài nghị luận
danh tiếng trong văn học Việt Nam đủ giúp chúng một kiến thức toàn diện về tiếng
Việt. Ở lớp tuổi này, việc dạy phân tích câu (cú pháp) đủ để tạo căn bản vững
chắc về ngữ pháp Việt Nam.
6.
Ngoài ra, công việc học quốc văn của học sinh cần được hỗ trợ bằng những bài
thuyết trình tại lớp, để huấn luyện cho chúng có được một khả năng hùng biện,
hay khiêm nhường hơn, một khả năng ăn nói trôi chảy.
7.
Duyệt lại học trình của ban Việt Hán của Đại Học Sư Phạm: Như đã trình bày, hiện
giờ chương trình Việt học (chuyên môn) của ban Việt Hán chưa đáp ứng nổi những
đòi hỏi cần thiết cho một giáo sư văn chương; chương trình cổ học quá nặng nề
không cần thiết: sinh viên phải học chữ Hán, chữ Nôm, ngoài ra còn phải học cả
văn bạch thoại và cả tiếng quan thoại nữa! Mục đích của chương trình cổ học đã
bị sai lạc một cách thảm hại.
Có thể nói người sinh viên Việt Hán
trong trường Đại Học Sư Phạm được đào tạo làm chuyên viên nghiên cứu - nếu được
phép nói thế- hơn là làm giáo sư trung học. Nếu hiểu giáo sư trung học là người
dạy tiếng Việt, và hướng dẫn học sinh phương pháp lập ý, suy luận và giảng dạy
văn chương Việt Nam cổ điển và cận, hiện đại thì với chương trình huấn luyện hiện
giờ, chưa đâu vào đâu cả; cùng lắm là đào tạo thành những giáo sư chuyên dạy Hán
tự, mà môn này lại chỉ dành riêng cho ban D thôi; các lớp khác chỉ cần biết tiếng
Hán Việt cũng đủ.
Tóm lại, với những ý nghĩ trên đây,
chúng tôi mong được làm một tiếng nói với những tiếng nói thẩm quyền khác về một
vấn đề đang trở thành thời sự trong giới giáo dục nước nhà. Chúng tôi cũng cần
thưa một lời cuối nữa là mặc dù những nhận xét và đề nghị của chúng tôi chỉ giới
hạn ở các lớp trung học, nhưng chúng tôi vẫn nghĩ là vấn đề quốc văn và quốc ngữ
trong học đường cần phải liên tục từ cấp tiểu học. Tuy nhiên vì chưa tìm hiểu kỹ
chương trình quốc văn và quốc ngữ ở các lớp đó nên chúng tôi không dám lạm bàn.
Mong các vị giáo chức liên hệ chỉ giáo cho. Muôn vàn cảm tạ.
Lê Nguyên Thuỵ
(Báo Chính Luận, ngày 22/04/1970.
tr. 7 & 23/04/1970, tr. 7.)
(1) Xin đọc : tạp chí Đất Nước số 16 (tháng 1 - 1970)
(2) Sách đã được chuẩn nhận làm sách giáo
khoa bậc trung học từ lâu.
(3) Theo thiển ý chúng tôi, có thể phân
hạng tuổi, các học sinh trung học làm ba lớp: lớp nhỏ: tương ứng với các lớp 6 và 7; lớp trung bình: tương ứng
với các lớp 8-9 và 10; lớp lớn: tương ứng với lớp 11 và 12.
VIỆT VĂN LỚP 12 ?
Lê Nguyên Thuỵ
Từ trước đến nay, người ta chưa hề nghe nói đến
Việt văn lớp đệ nhất (lớp 12 mới); nay kẻ này viết hàng chữ trên đây hẳn là muốn
lập dị chăng? Thật ra, khi viết bốn tiêng đơn giản làm đầu đề cho bài viết hôm
nay, chúng tôi không hề nuôi ý đồ lập dị với những gì đang được gọi là truyền
thống, đang được coi là bình thường trong chương trình giáo dục cấp trung học;
trái lại, chúng tôi muốn được góp ý với các thức giả về một sự kiện phức tạp và
nghiêm trọng của trung học Việt Nam: có nên đưa quốc văn lên lớp 12 (đệ nhất
cũ) không?
Chúng tôi nói quan trọng là vì việc đem Việt
văn lên lớp 12 sẽ kéo theo những vấn đề quan trọng khác như việc chuẩn bị tài
liệu giáo khoa, việc thay đổi toàn diện chương trình Việt văn trung học, và còn
vấn đề thiếu hụt nhân viên giảng huấn có thể xảy ra lúc ban đầu. Có lẽ vì phức
tạp như thế nên mới xảy ra những tranh luận sôi nổi giữa phái bảo thủ và phái cấp
tiến trong Hội đồng cải tổ giáo dục nhóm tại trường Sư Phạm Sài Gòn cách đây
hai tháng? Người đầu tiên đem vấn đề này ra trước Hội đồng là giáo sư Lê Hữu Mục
(trường ĐHSP Sàigòn).
Nhưng mặc dù vấn đề có phức tạp, khó khăn,
thiết tưởng những ai quan tâm đến giáo dục, thao thức tìm đường mới cho giáo dục
nước nhà cần để ý tìm hiểu. Chúng tôi chưa được biết và rất mong được biết, những
lý do khiến giáo sư Lê Hữu Mục lên tiếng về việc đưa Việt văn lên lớp 12. Chúng
tôi chưa thoả mãn về lý do khiến giáo sư bênh vực cho ý kiến của ông là để thoả
đáp quyền lơi được chấm thi tú tài II, như lời tường thuật của ông Đoàn Dự trên
một tờ nhật báo nọ.
Riêng chúng tôi thấy phải đưa việt văn lên lớp
12 vì những lẽ sau đây:
- Nhu cầu liên tục của môn học văn chương Việt
của học sinh Việt, nhất là ban văn chương. Không phải phân bì với các ban khác,
các môn học khác, nhưng là vì không phải dựa lý do gì để cắt bỏ nó đi; cũng
không phải thêm bớt một năm học đã ảnh hưởng đến sự kém cỏi quốc văn của học
trò, mà chỉ vì không thể cắt bỏ không lý do một môn học quan thiết cả một đời
người.
- Nhu cầu cập nhật hoá chương trình văn
chương Việt Nam hiện là vấn đề quan hệ cho một học sinh sắp giã từ cửa ngõ
trung học. Giáo dục quần chúng là phải đưa quần chúng đến cuộc đời trước mặt chứ
không thể chỉ bắt quần chúng lùi quá xa về quá khứ bụi mờ để rồi tầm mắt chỉ
còn thấy có quá khứ.
1
Khi nói rằng cần đem Việt văn lên lớp 12,
chúng tôi nhận thấy vấp phải việc thu xếp vị trí,vai trò của hai môn học triết
học và văn chương ở lớp 12. Rất tiếc, chúng tôi chưa được tìm hiểu kỹ ý kiến về
việc dạy triết ở trung học trong cuộc hội thảo giữa những giáo sư dạy triết tổ
chức cách đây không lâu. Nhưng chúng tôi xin mạo muội đưa ý kiến riêng về
chương trình triết học lớp 12 hiện hành:
Chúng tôi nghĩ, chương trình triết học lớp 12
hiện còn đang vướng nhiều khuyết điểm: trước hết, môn triết rất nặng nề và cổ
điển. Trong một năm ngắn ngủi, học sinh phải học đủ những ngành triết: Luận lý,
Đạo đức, Tâm lý, Siêu hình, Triết đông. Vì học quá nhiều nên kiến thức của học
sinh không thể nào đầy đủ gọi là có "căn bản" về triết học. Đã thế,
những điều giảng dạy trong chương trình lại quá cũ, có khi bị vượt qua từ lâu;
ví dụ: trong khi Âu Mỹ đã tiến đến ngành Tâm lý học thực nghiệm thì học sinh Việt
vẫn còn le te chạy đuổi theo Tâm lý học thuần lý. Ngoài ra, cũng cần thêm rằng
môn triết kinh viện hiện hành quá xa cách với đời sống, đã đưa đến bệnh thông
thái hão trong đầu óc học sinh, trở thành môn trang sức rởm cho một số học
sinh, trong khi thực chất của môn học không phải thế. Vì những khuyết điểm
trên, chương trình triết học lớp 12 chỉ là một thử thách cho học sinh trong kỳ
thi, hơn là giúp kiến thức cho chúng.
Do vậy, phải quan định lại vai trò của triết
học ở lớp 12, Triết hoc lớp 12 không nên- và không thể- ra ngoài mục đích trao
kiến thức căn bản về triết lý cho học sinh,để sửa soạn cho chúng một thái độ
suy nghĩ, thái độ sống khi rời mái trường trung học, hay là để giúp chúng một
bước đầu quan trọng cho việc nghiên cứu triết học ở cấp đại học. Ngoài ra, triết
học lớp 12 cũng cần giúp học sinh óc phân tich, óc hệ thống để chúng nhìn lại,
tìm hiểu văn chương VN. Thế thì chương trình học lớp 12 cần được dọn lại để xứng
hợp với vai trò của nó. Chúng tôi muốn nói là chương trình triết học lớp 12
không cần quá chuyên biệt và nặng nề- do đó cũng choán quá nhiều giờ học - như
hiện nay.
Xin trở lại câu chuyện thu xếp địa vị cho giờ
quốc văn và giờ triết học lớp 12 bằng trường hợp thí nghiệm của trường Trung Học
Kiểu Mẫu Thủ Đức. Trong bản hướng dẫn học sinh chọn ban chuyên khoa, phổ biến
vào cuối niên học 1968-69, nhà trường có dành cho học sinh lớp 12 ban văn
chương đặc quyền chọn một trong 2 lối: hoăc là học 8 giờ triết, hoặc là 5 giờ
triết học + 3 giờ Việt văn mỗi tuần. Thực ra dự định, thí nghiệm của trường
THKM Thủ Đức vẫn chỉ là một thí nghiệm chưa có nội dung, vì đến nay trường chưa
có lớp 12; nhưng chúng tôi nghĩ đây là giải pháp rất tốt, nếu như nội dung của
5 giờ Triết dành cho những học sinh chọn học cả Việt văn và Triết được cải tổ
toàn diện, khiến nó vừa đáp ứng cho nhu cầu học hỏi của cả học sinh chọn học 8
giờ lẫn 5 giờ triết. Đấy là chưa nói đến việc xác định nội dung 3 giờ triết
"chuyên biệt" (1) cũng như 3 giờ Việt văn có thực sự xứng đáng với
tính cách chuyên biệt của nó chăng.
2
Thực ra, việc đem quốc văn lên lớp 12 không
thể không kéo theo việc cải tổ tận nền tảng chương trình học của ban chuyên
khoa.
Trong tình trạng hiện nay,việc dạy Việt văn
chưa được hợp lý cho lắm (2). Thiết tưởng muốn cải tổ giáo dục, giới hữu trách
phải dứt khoát với quá khứ, không nên dựa vào chương trình cũ mà vá víu cho qua
loa được.
1.
Điều cần trước tiên là phân định rõ ràng hai cấp học: phổ thông (đệ nhất cấp) -
cấp chuyên khoa (đệ nhị cấp). Có phân định rõ như vậy mới bớt lúng túng khi soạn
thảo chương trình; bởi vì chúng tôi nghĩ rằng cấp phổ thông và cấp chuyên khoa
tuy cùng liên tục nhau nhưng mục tiêu không giống nhau; chẳng hạn môn Việt văn ở
cấp phổ thông chỉ nên chú trọng đến việc trau dồi tiếng Việt, học cách thức tác
văn bằng cách học những bài văn mẫu và bằng những bài thực tập, trong khi ở cấp
chuyên khoa phải hướng trọng tâm về học hỏi văn chương nước nhà.
Khi nói rằng học sinh cấp chuyên khoa học văn
chương Việt, chúng tôi muốn nói rằng chỉ ở cấp chuyên khoa mới cần thiết cho học
sinh một ý niệm về diễn trình văn học sử VN đồng thời hiểu những sắc thái văn học
nước nhà, cổ điển cũng như hiện đại, chứ không cần và không nên dành thì giờ để
giảng giải lịch sử văn học ở cấp phổ thông, dù là chỉ 5 giờ trong toàn niên học
lớp 9 (đệ tứ cũ) như bây giờ.
2.
Hiện nay, ở cấp chuyên khoa có 4 ban: A, B, C, D. Xét riêng chương trình quốc
văn ban C và D ta thấy chương trình hiện nay chưa ổn đáng. Chẳng hạn, học sinh
ban C chỉ được học văn chương nước nhà từ đời Trần đến 1945, thêm một phần văn
chương truyền khẩu. Ghi như vậy chứ thực ra học sinh không được học đầy đủ như
vậy; ví dụ khi học văn chương truyền miệng, học sinh chỉ được biết tục ngữ ca
dao ,trong khi văn chương truyền miệng không phải chỉ có tục ngữ ca dao mà còn
cả truyện truyền miệng, dân ca, chèo, tuồng. Về văn học thành văn, học sinh chỉ
thực sự học từ Lê Thánh tông (đời Lê), hoàn toàn bỏ rơi văn học đời Lý, Trần, Hồ;
hoặc là về văn học hiện đại, học sinh chỉ được học 3 tác giả trong Tự Lực Văn Đoàn
trong khi văn học mới không phải chỉ có 3 tác giả ấy.
Chừng ấy chương trình học được phân phối cho
hai năm học: lớp 10 và lớp 11. Kết quả: sau khi đỗ bằng tú tài 1, học sinh sẽ
dần quên mớ kiến thức vốn đã không lấy làm sung mãn về văn học nước nhà, trước
khi xong năm học cuối cùng ở Trung học.
3.
Ngoài ra, hiện nay chưa có một quan niệm thật tính xác về ban văn chương. Chẳng
hạn ban C (văn chương) và ban D (cổ ngữ) thực sự không khác nhau, chỉ khác nhau
ở chỗ một bên học hai sinh ngữ, một bên học một sinh ngữ và một cổ ngữ? Thế thì
phải gọi ban C là ban văn chương hay sinh ngữ? và ban D là cổ ngữ hay ban văn
chương? Chúng tôi cho rằng không thể gọi ban D là ban cổ ngữ hay rộng rãi hơn gọi
là "ban cổ điển", bởi lẽ rằng
môn cổ ngữ chỉ là một môn học sinh ngữ 2 của ban C, chứ không hề là một
môn học chính yếu. Vả chăng, ở trung học, sinh ngữ hay cổ ngữ chỉ là môn học
chung và cần thiết chứ không phải là một ngành riêng biệt như ở trên đại học .
Do đó, việc chính danh cho ban C và ban D cũng cần phải đặt ra bên cạnh việc cải
tổ chương trình học.
Chúng tôi đề nghị nên quan định lại nội dung
và tên gọi của ban văn chương. Nếu bên khoa học có hai ban là ban A (khoa học
thực nghiêm), ban B (khoa học thuần lý) thì ngành văn chương cũng có thể có hai
ban là ban C (văn chương hiện đại) và ban D (văn chương cổ điển). Lối nhận định
như trên có nhiều cái lợi:
Trước hết, lối phân chia ban văn chương hiện
đại, văn chương cổ điển có thể giúp đỡ học sinh khi lựa chọn ban; bởi lẽ nếu có
những học sinh ưa thích những cái mới, thì cũng có học sinh chuộng cổ (chúng
tôi muốn nói đến chuộng văn chương cổ điển chứ không ám chỉ cổ ngữ, mặc dù
trong chương trình ban văn chương cổ điển cần có chữ Hán).
Lại nữa, sự phân chia như vậy sẽ giúp học
sinh tuy mới chỉ thực sự tìm hiểu văn chương Việt Nam trong ba năm chuyên khoa
(3) nhưng cũng đủ thì giờ dể tìm hiểu kỹ lưỡng và hăng say. Kết quả chắc chắn sẽ
nhiều hơn là học dông học dài trong cả bảy năm trung học mà vẫn không chút hứng
thú gì.
Ngoài ra, việc phân chia ban văn chương hiện
đại và văn chương cổ điển cũng có cái lợi là cập nhật hoá được chương trinh quốc
văn, giúp cho học sinh làm quen với những trào lưu, những màu sắc mới mẻ đang
"sống" trong sinh hoạt văn học hiện đại. Được mở mắt nhìn thấy sinh
hoạt văn chương sống động ngay từ khi học ở trung học , tất nhiên học sinh ban
văn chương hiện đại sẽ có đầy đủ bản lĩnh khi bước chân khỏi ngưỡng cửa trung học
để vào đời hay lên đại học.
3
Khi đã phân định được hai ban văn chương: hiện
đại và cổ điển rồi thì việc phân phối chương trình quốc văn các lớp chuyên khoa
sẽ không còn nan giải là mấy. Và cũng do đó việc đưa quốc văn lên lớp 12 không
còn khó khăn nữa.
Đại để, học sinh ban C và ban D cần được tìm
biết những vấn đề sau đây trong giờ quốc văn:
1.
Lịch sử văn học Việt nam (tức là giờ văn học sử): học sinh cả hai ban văn
chương đều phải cần biết rõ những bước thăng trầm của văn học dân tộc qua quá
trình lịch sử; bởi vì không nắm được lịch sử văn học, học sinh sẽ không hiểu thấu
đáo những sự kiện văn học khi tìm hiểu các tác giả trong chương trình học. Dĩ
nhiên, đối với ban C (văn chương hiện đại), cần chú trọng lịch sử văn học hiện
đại hơn; trong khi các học sinh ban D (văn chương cổ điển) thì ngược lại, cần
hiểu kỹ hơn về lịch sử văn học cổ điển nước nhà. Thiết tưởng, chương trình văn
học sử cần được chu toàn trong hai năm đầu của bậc chuyên khoa (lớp 10 và lớp
11).
2.
Tìm hiểu các tác giả tiêu biểu trong lịch sử văn học Việt Nam (tức là giờ giảng
văn): song song với chương trình văn học sử, học sinh sẽ được tìm hiểu kỹ từng
tác giả quan trọng khả dĩ tiêu biểu cho những thời kỳ văn học. Học sinh ban C sẽ
chú trọng đến văn hiện đại, trong khi học sinh ban D sẽ chú trong đến văn cổ điển,
và cũng học liên tiếp trong hai năm (lớp 10 và lớp11).
3.
Tìm hiểu những sắc thái, những trào lưu văn học hiện diện trong văn học Việt
nam (tức giờ khảo luận văn học): học sinh được hướng dẫn tìm hiểu một cách thống
quan và toàn bộ những đặc tính văn học nước nhà. Học sinh ban C (văn chương hiện
đại) được học về những lý thuyết văn học mới mẻ đang chi phối sinh hoạt văn học
hiện đại, tìm những cơn gió nào đã thổi đến văn học Việt nam trong thời hiện đại,
tìm những vấn đề văn học, những chủ đề văn học trong thời hiện đại... Học sinh
ban D (văn chương cổ điển) sẽ ngược lịch sử để tìm những sắc thái, những khuynh
hướng, những lý thuyết văn học đã chi phối văn học cổ điển nuóc nhà;chẳng hạn,
học sinh tìm hiểu những nét cá biệt khiến cho thời kỳ 200 năm văn học nhà Lý
khác với thời kỳ văn học sau đó..., học sinh tìm hiểu những vấn đề văn học, những
chủ đề văn học trong thời cổ điển của nước nhà,
Giờ học này đòi hỏi một trình độ trưởng thành
về kiến thức văn học của học sinh, nó cũng cần có óc suy luận tổng hợp tinh tế
của học sinh. Do đó, giờ học này nên dành cho học sinh lớp 12, song song với
chương trình nhập môn triết học có ghi trong chương trình lớp này.
4.
Thực tập tác văn nghị luận văn học (tức là giờ luận văn): thực ra môn luận văn
là môn học cần thiết của học sinh từ khi bước chân vào học đường đến khi tốt
nghiệp. Nhưng ở bậc trung học, học sinh cần được hướng dẫn về cách tác văn
trong suốt mấy năm ở cấp phổ thông. Trên nguyên tắc, khi lên đến ban chuyên
khoa, thực tập tác văn chỉ là để tập suy luận sắc bén hơn, đào sâu vấn đề thực
tập mà thôi.
Nhân tiện, chúng tôi xin mở dấu ngoặc để nói
về giờ học sinh ngữ của ban văn chương C và D. Dĩ nhiên, với học sinh ban C
(văn chương hiện đại), vấn đề sinh ngữ chính và phụ là điều bắt buộc: Anh ngữ
và Pháp ngữ, riêng với ban D (văn chương cổ điển), vấn đề sinh ngữ và cổ ngữ cần
để ý. Hiện nay, ban cổ điển vẫn dạy hai cổ ngữ: La tinh và Hán. Chúng tôi nhận
thấy chữ Latin được ghi làm cổ ngữ cho ban cổ điển Việt Nam là cả một vô lý
quái gở, bởi lẽ nó không giúp cho học sinh Việt tìm hiểu cổ văn Việt Nam. Chúng
tôi nghĩ chỉ cần ghi chữ Hán làm cổ ngữ chính thức cho ban văn chương cổ điển
Việt Nam là đủ, cùng lắm là ghi thêm chữ Nôm vào chương trình lớp 12. Chúng tôi
đóng ngoặc.
4
Học đường trung học hiện nay đang đòi hỏi một
cải tổ sâu rông, vì nhu cầu học hỏi của học sinh đang cấp bách. Nhưng cải tổ không
có nghĩa là nuối tiếc quá khứ một cách mù quáng để trở thành chắp vá tạm bợ. Việc
đưa môn quốc văn lên lớp 12 không phải là vấn đề đơn giản,nhất đán có thể thực
hiện được; nhưng đồng thời nó cũng không phải một ý kiến ảo tưởng hay hẹp hòi để
đến nỗi sẽ bị bỏ lơ một cách lười biếng cố chấp. Dù sao vấn đề cũng cần phải được
thảo luận nghiêm túc hơn, sâu rộng hơn. Nêu những ý kiến nhỏ trên đây, chúng
tôi không có ý nghĩ nào khác hơn là "bàn góp" với những người có
trách nhiệm. Chúng tôi mong được các bậc cao minh sẵn lỏng chỉ dạy.
Lê Nguyên Thuỵ
(Báo Chính Luận, ngày 08/05/1970. tr. 7 & 09/05/1970, tr. 7.)
(1)
Nói theo các sinh viên dự bị Văn Khoa Saigon trước đây.
(2) Xin đọc: Lê Nguyên Thuỵ, "Quốc Văn
trong học đướng". Chính Luận, ngày 22/4/1970 & 23/04/1970.
(3) Bởi vì, như đã trình bày ở trên, trong 4
năm đầu ở trung học chương trinh không chú trọng nhiều đến văn học sử, văn
chương mà chỉ nhắm đến trau dồi quốc ngữ sao cho học sinh giỏi.