Phải
chăng tác giả Truyện Phan Trần
là Nguyễn
Huy Lượng ?
Đoàn Xuân
Kiên
Khoảng thời gian ba thế kỉ
XVII-XVIII-XIX là thời thịnh của thể loại truyện nôm. Các nhà văn thời này đều
có chấp bút và đã lưu lại nhiều tác phẩm văn chương lôi cuốn nhiều thế hệ người
đọc. Truyện Phan Trần là một truyện
nôm ra đời trong thời kì này, cụ thể là khoảng cuối thế kỉ XVIII, trễ lắm là đầu
thế kỉ XIX.
Nội dung truyện là câu chuyện
tình yêu của hai người trẻ tuổi tên là Phan Tất Chính và Trần Kiều Liên. trước
kia, khi hai bên cha mẹ là Phan công và Trần công cùng làm quan trong triều vua
Tĩnh Khang nhà Tống, đã có lời đính ước với nhau khi hai phu nhân cùng thụ
thai. Không bao lâu cả hai ông về trí sĩ thì loạn li khiến hai nhà lạc nhau,
hai người trẻ tuổi cũng lưu lạc, Phan sinh thì lên kinh học thi, cô gái Kiều
Liên thì cha mất và rồi lạc mẹ sau cơn biến loạn, phải vào chùa tu. Cuộc sống
run rủi cho hai người gặp nhau, và yêu thương nhau thầm lén trong khung cảnh
nhà chùa. Hai người dần biết là họ chính là những người con đã đính ước từ lâu,
nên đã thành hôn với nhau. Khi Phan sinh thi đỗ, hai người trở về đoàn tụ với
gia đình đôi bên. Từ đó hai người sống hạnh phúc tròn vẹn trong cuộc đời thành
đạt.
Chuyện tình ái đầy chất đam mê của
đôi nam nữ trong truyện được kể lại tường tận qua văn từ cũng sôi nổi, cụ thể
không kém, từ khi chàng thư sinh lên vãn cảnh chùa đã si mê sư cô trẻ mà quên mất
lời đính ước hôn nhân gia nghiêm đã từng dặn dò, đến khi chàng thanh niên ốm
tương tư và chỉ nhờ cuộc viếng thăm mầu nhiệm của sư cô trẻ mà khỏi bệnh để rồi
lại càng đắm say với tình yêu không bình thường giữa một thư sinh và một ni cô
tươi trẻ. Cũng may là khi họ đi lại với nhau, dần dà mới cùng nhận ra họ chính
là đôi trai gái đã từng được đính ước từ nhỏ, chỉ vì xiêu tán mà lạc nhau. Thế
là nhờ may mắn mà tình yêu lãng mạn đắm say và lệch khuôn thước xã hội đã được
kết thúc có hậu trong khuôn khổ lễ giáo.
Đương thời, có người đã phê phán
chuyện tình Phan-Trần qua câu vè:
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý
Kiều
có lẽ là do lối hành văn nhã luyện,
lôi cuốn của các tác giả dành cho hai câu chuyện tình lệch khuôn thước xã hội,
và xem như là hai tác giả nhà văn nho sĩ tài hoa này đã cổ vũ cho lối sống lãng
tử, vượt bỏ lề thói xã hội chăng? Nếu thế thì có phần khắt khe quá đối với tác giả truyện Phan Trần và truyện Kim Vân
Kiều, vì có phải riêng hai truyện nôm này như thế đâu, mà đấy cũng là nét
chung của dòng văn chương tài tử thời đó, dù có vượt bỏ khuôn thước gò bó của lễ
giáo Nho gia nhưng cũng chưa hẳn đoạn tuyệt được với hệ tư tưởng chủ đạo của xã
hội. Thời ấy đã như làn sóng tràn những câu chuyện tình yêu tươi trẻ chưa từng
thấy xuất hiện trong kho tàng văn học nôm cổ, nào có riêng gì hai truyện nôm nhắc
tới trong câu vè kia! Chúng tôi thiển nghĩ câu chuyện ngự sử văn đàn này, không
phải là chuyện thuần văn học hay luân lí, mà mang đậm chất chính trị-xã hội của
một thời xã hội còn đang dao động sau cuộc sang trang đổi đời của chính trị xứ
ta sau 1802, như sẽ nói ở phần dưới bài.
Phong thái phóng túng của nhà nho
tài tử thời kì này rốt cùng cũng chỉ được trút ra trên trang văn thơ trữ tình,
và những nhà văn nho sĩ được gọi là những nhà nho tài tử vì phong thái lệch
khuôn thước của họ. Chỉ nói riêng về phong cách ngôn từ cùa thế hệ những nhà
nho tài tử này thì có thể nói thời kì thịnh đạt của văn nôm này cũng là thời của
những câu thơ chuốt lọc nhất, kĩ xảo nhất. Chất thơ, chất trữ tình đã được thể
hiện ở mức tinh luyện nhất của câu văn nôm. 3254 câu văn Kiều nôm là những câu
văn giàu tính văn nhã, tiêu biểu cho trình độ trang nhã cao nhất của ngôn ngữ văn
học thời thịnh nôm. 938 câu lục bát của truyện Phan Trần cũng có vô vàn những câu văn nhã luyện không kém văn Kiều.
Và cũng trong dòng chữ nghĩa đẹp và nhã như thế, câu văn trong truyện Hoa Tiên, truyện Nhị Độ Mai hay những bài ngâm nổi tiếng như Chinh Phụ Ngâm, Bần Nữ Thán... đều cho ta niềm tự hào về tầm cao
nhã của câu văn nôm Việt thời thịnh nôm này. Cho nên cũng không lạ gì khi một số
nhà nghiên cứu trước đây đã lẫn lộn chất trữ tình và chất nữ tính trong câu văn
nôm thời này, và đã bảo lưu một định kiến lâu dài là câu văn trữ tình và giàu nữ
tính hẳn phải là sản phẩm của nhà văn nữ. Đó là khi các vị biện hộ cho bà Đoàn
Thị Điểm vì muốn giành tác quyền bản diễn
ca Chinh Phụ Ngâm nổi tiếng cho bà,
làm như thể Phan Huy Ích không có khả năng cao diệu như thế.
Trở lại Truyện Phan Trần. Nhìn lại tất cả các bản in thì có thể thấy ngay
là cho đến nay, Truyện Phan Trần
không thấy có tên tác giả, cho nên vẫn thường được xếp vào kho truyện nôm khuyết
danh (1). Trong điều kiện tài liệu hiện nay, có thể nào truy tầm tác giả truyện
nôm này không? Để trả lời câu hỏi này thiết tưởng cũng nên để ý qua hiện tượng
văn nôm khuyết danh của thời kì thịnh nôm cuối Lê-đầu Nguyễn.
Sự kiện một khối lượng lớn các
truyện nôm khuyết danh là điều khó hiểu nhưng lại là điều thường xảy ra trong dọc
dài lịch sử văn học hán-nôm nước ta trước đây. Hiện tượng này có nguyên do xã hội
của nó. Trong thời đại mà văn chương chỉ là thứ văn chương nhàn phóng, trà dư tửu
hậu, thì chuyện đề tên người trứ thuật không phải là chuyện đáng quan tâm hàng
đầu của nhà văn nho gia. Tác giả có thể viết tay đề tặng bạn tri âm tri kỉ một
bài văn khi có cuộc bình văn. Người bạn yêu thích bài văn lại có thể chia sẻ với
bạn bè. Trong khi ngâm ngợi, nhóm bạn lại còn có thể nhuận sắc, thay đổi một
vài chữ chỗ này chỗ khác cho "đạt" hơn, "nhã" hơn... Có thể
bản văn truyên nôm Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) hay Phan Trần cũng như bao nhiêu tác phẩm
văn nôm của ta đã chuyên tay trong tình cảnh như thế mà nay khó có thể truy
nguyên bản văn gốc và những tác phẩm văn nôm đã bị "nhuận sắc". Hoạ
hiếm lắm mới có được một trường hợp như Truyện
Hoa Tiên mà ngày nay ta còn may mắn giữ được bản văn nguyên tác (của Nguyễn
Huy Tự) và nhuận sắc (của Nguyễn Thiện).
Trong hoàn cảnh chung thì đã như
thế. Đến những thời kì khá đặc biệt như trong hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương thời
cuối Lê - đầu Nguyễn (thế kỉ XVIII-XIX), lại còn một tình cảnh khác thường,
"nhạy cảm". Trong hoàn cảnh tế nhị đó, nhiều nhà văn nhà thơ có để lại
nhiều di cảo hoặc bản khắc in lúc sinh tiền; nhưng con cháu đã phải cất giấu
sách vở của cha ông, hoặc có giữ lại thì cũng cắt bỏ phần lạc khoản, như thể
các di cảo kia là của những người vô danh nào đó. Chỉ đến khi xã hội đã hết nhập
nhằng, tạm gọi là ổn định, người đời sau có quý chuộng sách hay thì lôi ra khắc
in, cũng mặc nhiên bỏ trống phần lạc khoản nêu rõ danh tính người soạn sách.
Trường hợp điển hình mà chúng ta
nay còn biết được là bản sách chép-in tập Chinh
Phụ Ngâm Diễn Âm Tân Khúc của Phan Huy Ích, được biết là bản rập của bản khắc
in năm Gia Long 14 (1816), căn cứ vào dòng chữ đề năm khắc in trên bìa. Bản khắc in này thực hiện mười năm sau khi ông soạn xong bản diễn ca tại Thăng Long (1804), khi mà không khí chính trị Thăng Long trong thời gian mới đổi chủ chắc là chưa hết sự "nhạy cảm". Bản rập này chỉ khác bản
in từ ván khắc ở điểm là nét chữ bút lông sắc sảo,
chân phương. Trên trang đầu của sách có đầy đủ khung chữ đề danh tính tác giả ở trang đầu nhưng đã
để trống. Một sự lạ. Sách có bài nguyên tự dài khoảng ba hoặc bốn trang, nhưng đã
bị tháo bỏ tờ có hai trang cuối ấy, chắc chắn phải có ghi đầy đủ lạc khoản nêu
rõ danh tính người làm sách và những người liên quan đến bản khắc in. Ngày nay
ta biết được tác giả của bản Chinh Phụ
Ngâm Diễn Âm Tân Khúc này là nhờ vào những dữ kiện khác về tác giả của nó
chứ không dựa vào bài tựa thiếu trang kia.
Bìa bản rập theo bản khắc in CPNDÂTK năm Gia Long 14 (1816) phần danh tính tác giả (cột bên phải) hoàn toàn bị bỏ trống
Tại sao một tác gia nổi tiếng như
Phan Huy Ích mà số phận sách in phải truân chiên như thế? Chỉ vì ông sống đúng
vào thời mà đất nước chưa qua buổi tao loạn nhiễu nhương. Ta không quên rằng
năm 1802, ông và người anh vợ (Ngô Thì
Nhậm) là hai ông tiến sĩ đã phải bị đòn roi ngoài Văn Miếu! Cho nên cũng là sự
thường (!) thôi, nếu những năm đầu triều Nguyễn sách vở của những nho thần triều
Lê-Trịnh hay Tây Sơn có bị vùi dập, đẩy lùi vào vòng ẩn danh, rồi rơi xuống
khuyết danh, thậm chí vô danh (!), khi đời sau in lại các di cảo của họ.
Trong số nhiều danh sĩ tiền triều
ở đầu thế kỉ XIX có Nguyễn Huy Lượng (1750 [?]-1808). Ông là văn thần và là nhà
thơ sống cuối đời Lê trung hưng, có ra làm quan với nhà Tây Sơn, và đến đầu đời nhà
Nguyễn có được vời làm chức tri phủ Xuân Trường, rồi chết trận khi tại chức (theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, q.7, Tháng 10, 1808), cũng có thể vì một lí do mờ ám (theo Minh Đô Sử của Lê Trọng Hàm), khi ông mới trên
dưới tuổi 60.
Cho
đến nay chúng ta biết được là Nguyễn Huy Lượng có bút hiệu Bạch Liên Am. Người
đương thời vẫn gọi ông là Bạch Liên Am Nguyễn. Trong Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo, Hoàng Xuân Hãn đã sao lục và phiên chuyển
ra chữ quốc ngữ một bài văn lục bát 246
câu của Bạch Liên Am Nguyễn, phỏng dịch ra văn nôm từ nguyên tác hán văn Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn (2). Một
số tài liệu trích diễm còn cho tác giả của tập Cung Oán Thi là của Bạch Liên Am Nguyễn (3), số tài liệu khác lại
cho là của Nguyễn Huy Lượng (5). Có lẽ cho đến nay chỉ có Maurice Durand là người
đầu tiên nhận ra sự kiện Bạch Liên Am Nguyễn và Nguyễn Huy Lượng là cùng một
người (3). Chúng ta cũng được biết là Nguyễn Huy Lượng từng góp lời bình trong một bản cảo Truyện Kiều của Nguyễn Du khi truyện nôm này vừa được phổ biến (4)... Những chỉ dấu hiếm hoi và rải rác trên thư tịch cũ cũng đủ cho thấy ông là người đã từng theo nghiệp sáng tác và có giao du cùng với những nhà văn cùng thời như Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du...
Tiếc
thay, Maurice Durand và Trần Nghĩa đã bỏ mất cơ duyên khảo sát văn phong Cung
Oán Thi, phú Tây Hồ, văn tế Tướng Sĩ Trận Vong, hay gần hơn là bản phỏng dịch Chinh Phụ Ngâm (là những chứng tích văn
chương của Nguyễn Huy Lượng) để từ đó nhận ra văn phong khá thống nhất với tác
phẩm truyện nôm mà các ông đã dày công khảo đính và phiên chuyển: Truyện Phan Trần. Văn phong ấy chỉ có thể
là của nhà văn Nguyễn Huy Lượng thôi.
Thật
vậy, Nguyễn Huy Lượng là người viết văn không ngại liên hệ bản thân khi làm
văn. Ông đã có lần cho biết khi làm bài phú Tây Hồ, ông đã ngoài 50 tuổi:
"Ngoài năm mươi thẹn bóng tang du" (Tụng Tây Hồ). Mở đầu truyện
nôm Phan Trần, ông cũng bảo:
Liên
Am 莲 庵 nhân gặp hội vui
Tưởng ân tình nghĩa, xem chơi quyển vàng
Chúng
tôi trích theo bản phiên chuyển từ bản nôm Phan
Trần Trùng Duyệt do Thần Khê Đồng Phong viết chữ và Thiên Khẩu Thuỷ Vũ (tức Vũ Hoạt) khắc in năm Thành Thái Giáp Thìn (1904). Đây là một
bản khắc in khác hẳn hệ ván khắc của một số lớn các bản khắc in đầu thế kỉ XX.
Trang đầu Phan Trần Truyện Trùng Duyệt (1904)
Các
bản khắc in khác thì khắc "trên 𨕭 (am)"
với chữ nôm liên + thượng, và lại đổi thành câu khác hẳn:
Trên
am thong thả sách cầm
Nhàn nương án ngọc buồn ngâm quyển vàng
Trang đầu Phan Trần Truyện bản Văn Đường (1867)
Đọc lời Tựa và lời chú thích trên đầu trang mở đầu truyện của bản khắc in Trùng Duyệt, chúng ta cũng thấy nhà khắc in đã thông báo khá rõ về tác giả truyện nôm này: hai lần tên "Liên Am" được nhắc đến với tư cách là người trứ soạn Phan Trần Truyện. Chúng tôi tin rằng, trong trường hợp này, nhà nho Vũ Hoạt đã ghi lại
đúng lời truyền khẩu trong dân gian về tác giả Phan Trần Truyện, vì ông sống và làm nghề in ở Thăng Long, không xa
nơi mà Nguyễn Huy Lượng đã từng sinh sống non thế kỉ trước. Vì vậy, có thể tạm
kết luận là, trừ phi có thêm những chứng cứ nào khác xác thực hơn, hiện nay
chúng ta có thể xem Liên Am, hay Bạch Liên Am, tức Nguyễn Huy Lượng chính là
tác giả Phan Trần Truyện.
Lời Tựa bẳn in Phan Trần Trùng Duyệt (1904) có nhắc tên tác giả Liên Am
Phần Chú Thích trên đầu trang nhất bản khắc in Trùng Duyệt
lại nhắc đến tác giả Liên Am trong lời tán thán
Trước nay chúng ta biết khá nhiều trường hợp người đời sau tự tiện nhuận sắc văn người xưa theo ý mình, hoặc có khi vì không hiểu ý văn người xưa mà đổi ra cho dễ hiểu theo ý mình. Chỉ xét riêng trường hợp hai câu mào đầu khác nhau này, chúng ta có thể nhận ra ngay hai phong cách văn chương khác nhau. Câu mở đầu của bản Trùng Duyệt cho ta thấy phong cách thoải mái, an nhiên của nhà văn khi đặt bút xuống trang giấy; ông nói về cảm nghĩ của bản thân mình trong buổi đầu lúc khai mào truyện. Phong cách ấy nhất quán với phong cách sảng khoái của nhà văn khi tụng cảnh Tây Hồ hay khi viết bài tế tướng sĩ trận vong. Thật khác với phong cách nhàn rỗi, thừa thãi thì giờ của một người ra ngẩn vào ngơ như hai câu mở đầu của bản văn khác.
Nguyễn Huy Lượng còn để lại nhiều tác phẩm văn nôm. Phong cách văn ông vừa tài hoa, vừa có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trước nay học giới đã quen với phong cách mạnh mẽ hùng biện của ông qua các bài phú, văn tế. Trong khung cảnh học thuật cổ thời, văn biền ngẫu mà có phong cách lôi cuốn như bài Tụng Tây Hồ Phú và bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Trận Vong thì phải là người văn tài hơn người.
Cho
đến nay, chúng ta biết được văn tài Nguyễn Huy Lượng qua các bài văn Tụng Tây Hồ
Phú và Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong. Hình ảnh nhà văn Nguyễn Huy Lượng qua những
câu văn biền ngẫu trên là một người học rộng, thấm nhuần phong cách văn chương
cổ điển, chữ nghĩa người xưa đầy ắp trong câu văn ông mà quý thay con người cá
nhân nhà văn vẫn không chìm ngập trong kho chữ nghĩa tập cổ đó; ông đã lặn sâu
trong chữ nghĩa mà vẫn nổi lên khỏi nó để chữ nghĩa văn từ trong bài văn vẫn là
mình, phản ảnh bản sắc con người mình. Một bài phú Tây Hồ đã tập đại thành đầy
đủ phong cách văn chương này. Hiểu và thích thú với văn chương bài phú đòi hỏi
công phu làm quen với phong cách từ chương cổ điển; nhưng chữ nghĩa vẫn không
làm mờ nhạt bản sắc văn phong cá nhân tác giả bài văn biền nổi tiếng (6).
Bên
cạnh con người nhà văn nho sĩ có khẩu khí hào sảng, tràn đầy sức sống, từ nay
chúng ta còn biết thêm là có một Nguyễn Huy Lượng tài hoa, văn chương nhã luyện
của phong cách văn chương thời đại ông: văn chương lãng mạn, tài tử. Phong cách
bài phỏng dịch Chinh Phụ Ngâm của Bạch
Liên Am là phong cách tài hoa, giàu mĩ cảm. Những câu thơ tự tình lục bát mềm mại
của bài ngâm cũng đã thể hiện nữ tính đa cảm của người chinh phụ, khắc hoạ một
chân dung cảm xúc phong nhiêu của một nhà văn giàu sức liên cảm với số phận
những con người quanh ông, cụ thể trong bài văn Chinh Phụ Ngâm này là của người phụ nữ mong chồng chinh chiến sớm
trở về. 246 câu thơ lục bát đó còn là biểu hiện của tấm lòng liên ái những phận
người kém may mắn, thua thiệt trong một xã hội đã quá nhiều tao loạn. Tấm lòng
rộng lớn của nhà văn chưa đủ làm nên nhà văn lớn nếu ông không có một tài năng
hơn người khi vận dụng ngôn từ để trải lòng mình ra trên giấy. Những cung bậc
tình cảm của người phụ nữ trong bài Chinh
Phụ Ngâm lục bát đã phản ảnh con người tài hoa đa cảm của nhà văn Bạch Liên
Am.
Phong
cách văn nhã của nhà văn nhà thơ Bạch Liên Am đã một lần nữa phả vào từng câu
thơ lục bát trong Truyện Phan Trần. Từ
lối văn lục bát tự tình trong bài ngâm chuyển sang lối tự sự trong thể truyện,
nhà văn đã gói vào trong câu văn tự sự những mẩu suy nghĩ, những cảm nhận của
ông về những cảnh đời của những con người dù là hư cấu đấy mà vẫn mang đậm những
tình cảm thật của những con người thật mà ông từng gặp gỡ, từng chung sống và
chia sẻ tâm tình thời đại trong những khung cảnh xã hội khác nhau.
Trong
Truyện Phan Trần, những nhân vật (vốn
xuất thân là những người thuộc đẳng cấp nho sĩ) đã nếm trải hết mùi vị cuộc sống,
từ dùi mài kinh sử, đến yêu đương nồng nhiệt của tuổi trẻ, từ những thất bại
trong khoa trường và tình trường đến những hạnh phúc gia đình yêu thương và
vinh hoa của đời phục vụ xã hội. Những hạnh phúc và đau khổ, những khuôn thước
xã hội và những quá đà trong đời sống tình cảm tuổi trẻ, những cảm nhận về nhân
tình thế thái mà ta thấy trong dọc dài câu chuyện kể về một mối tình lãng mạn hẳn
phải là phản ảnh kho kinh nghiệm sống của tác giả truyện nôm này. Nói cách
khác, Bạch Liên Am phả vào từng câu thơ phong cách con người đa tình tài hoa của
một nhà văn nho thần.
Nói
về phong cách văn chương Truyện Phan Trần,
không thiếu những câu lục bát giàu chất thơ như ta thường gặp trong kho tàng
truyện nôm lục bát ở thời kì cuối thế kỉ
XVII-đầu thế kỉ XIX. Phong cách chung những câu lục bát trong truyện nôm
là những kĩ xảo tiểu đối, cân phương, hô ứng, ý ở ngoài lời..., tạo nên phong
cách bóng bẩy của văn chương, của ngôn từ văn học một thời. Trong chừng mức
này, Truyện Phan Trần là một truyện
nôm sánh ngang cùng những danh tác cùng thời đại của nó.
Tính
đến khi bản khắc in sớm nhất mà nay ta còn được biết là năm 1867, Nguyễn Huy Lượng
mất đi chỉ nửa thế kỉ thôi. Chỉ trong 50 năm ấy mà tác phẩm còn lại của ông đã
trôi lạc lênh đênh qua mấy thể dạng sau:
(1)
Có tác phẩm bị gán nhầm tác giả, như trường hợp tập Cung Oán Thi bị gán cho Nguyễn Hữu Chỉnh, và bài Văn Tế Tướng Sĩ Trận
Vong bị gán cho tổng trấn Nguyễn Văn Thành;
(2)
Có tác phẩm bị những người hẳn là ở vị
thế của những chủ nhân ông mới của xã hội Bắc hà sau 1802 dè bỉu qua một câu vè
tưởng như vô tình nhưng có mang màu thù nghịch thường thấy trong buổi giao thời:
"Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ
kể Thuý Vân Thuý Kiều". Hai tác phẩm liên can chính là Truyện Phan Trần và Đoạn Trường Tân Thanh. Trước nay các nhà bình luận chỉ nhìn ở khía
cạnh phê phán bản thân hai quyển truyện nôm mà quên rằng hai tác phẩm văn
chương này không khác là bao về nội dung tài tử, lãng mạn vượt khỏi quy lệ Nho
gia. Tính cách chung của văn nôm thời kì cuối Lê - đầu Nguyễn là như vậy chứ có
riêng gì hai tác phẩm trên đây! Từ Song
Tinh Bất Dạ (thk XVII) đến một loạt những truyện nôm ở thk. XVIII-XIX như Hoa Tiên Truyện, Nhị Độ Mai, Sơ Kính Tân
Trang, và hàng loạt truyện nôm mà nay còn khuyết tên tác giả như Tống Trân, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh,
Phương Hoa, Lý Công..., ở những mức độ khác nhau, tính cách lãng mạn vượt
qua những quy ước ứng xử Nho gia đã là nét chủ đạo của những truyện nôm này.
Sao lại chỉ phê phán hai truyện nôm Phan
Trần và Kim Vân Kiều? Sự thực là
thời tranh tối tranh sáng những năm đầu triều Gia Long là những năm tháng không
êm ả cho rất nhiều những nhà văn nho thần đã từng phục vụ tiền triều. Họ có thể
bị căng nọc trước văn miếu vì cái tội là tiến sĩ mà không chọn đúng chủ mà thờ!
Họ có thể bi triệu phái, lưu dung một thời gian trước khi bị thải hồi khi hết cần
thiết (như Phan Huy Ích) hoặc thậm chí chết thảm (như Nguyễn Huy Lượng). Một
câu vè "Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều" chỉ có thể hiểu cạn lẽ trong bối cảnh
xã hội cụ thể đó thôi;
(3)
Có những tác phẩm thời cuối Lê - đầu Nguyễn, nhất là vào triều đại Tây Sơn đã
vì thời cuộc mà bị đẩy vào kho văn chương khuyết danh một thời gian dài. Khi hậu
thế lục tìm lại trong kho sách cũ những sách vở giá trị để khắc in thì chỉ có
thể tìm được những quyển văn mất đầu thiếu đuôi... Khối lượng những tác phẩm
truyện nôm thường bị coi là khuyết danh, vô danh (!) trong khoảng thời gian này
nhiều lắm, nhiều một cách bất thường, phần lớn là vì lí do xã hội của chúng. Sự kiện một số tác phẩm của Nguyễn Huy Lượng bị che giấu danh tính tác giả cũng nằm trong hoàn cảnh thời thế, xã hội những năm đầu đổi đời đó.
Tóm
lại, trong chừng mức hiện nay, với những chứng liệu có từ văn bản truyện nôm Phan Trần và một vài tài liệu liên quan,
có thể đã đến lúc trả lại tác quyền truyện nôm Phan Trần cho nhà văn Nguyễn Huy Lượng. Trước tiên là phong cách
văn chương khá sát sao giữa bản phóng dịch Chinh
Phụ Ngâm mà tác giả kí tên Bạch Liên Am Nguyễn và văn phong truyện nôm Phan Trần; bên cạnh đó, chứng từ khá hiển
nhiên là tác giả tự nêu danh tính ở câu đầu tiên truyện nôm này. Thêm một bàng
chứng nữa là những sự kiện chung quanh cảnh ngộ cá nhân nhà văn trong một hoàn
cảnh xã hội nhiễu nhương đã khiến sự nghiệp văn học của ông bị phủ mờ khói bụi
của thời gian. Có thể trong tương lai, các nhà nghiên cứu có thể tìm ra thêm những cứ
liệu xác tin hơn để trả lại cho Cesar những gì của Cesar, trong ý hướng đẩy lùi
dần tình trạng khuyết danh tác giả những áng văn chương trong kho tàng văn học
hán-nôm nước nhà.
Đoàn Xuân Kiên
(1)
Cho đến nay, tác phẩm này đã được khắc in nhiều lần. Bản
in chữ nôm cũ nhất còn giữ được là Phan
Trần Truyện, bản khắc in vào mùa thu năm Đinh Mão (1867), thời vua Tự Đức
(hiện còn một bản lưu tại thư viện École des Langues Orientales, Paris). Sau đó
nhiều bản in khác hiện còn bản in lưu tại các thư viện hán nôm các nơi: bản in Phan Trần Truyện khắc in năm Nhâm Thìn
(1892), đời vua Thành Thái (hiện còn bản lưu trữ tại Bibliothèque Nationale,
Paris) ; một bản Phan Trần Truyện
khác in năm Nhâm Dần (1902), cũng vào đời Thành Thái (một bản in hiện lưu tại
thư viện Viện Hán Nôm, Hà Nội); một bản in Phan
Trần Truyện nữa khắc in mùa đông 1926, vào đời Bảo Đại (hiện còn một bản in
tại thư viện Viện Hán Nôm, Hà Nội). Một bản khắc in khác được thực hiện mùa hạ
năm Giáp Thìn (1904), đời Thành Thái, có tựa đề Phan Trần Truyện Trùng Duyệt, có khi gọi là Phan Trần Truyện Tăng Đính (có bản in hiện lưu tại thư viện Viện
Hán Nôm, Hà Nội).
Bản in chữ quốc ngữ cũng có khá
nhiều, rải rác từ cuối thế kỉ XIX đến nay. Bản in sớm nhất là Phan Trần Truyện do Trương Vĩnh Ký phiên
chuyển, và do nhà in A. Bock in năm 1889 (có một bản lưu tại thư viện École des
Langues Orientales, Paris); Phan Trần
Truyện Dẫn Giải do Đinh Xuân Hội biên tập tại Toà Hán Việt Tu Nguyên, và do
nhà Tân Dân Thư Quán xuất bản năm 1930; Truyện
Phan Trần do Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích, và do nhà Tân Việt xuất
bản tại Sài Gòn (1952); bản in Truyện
Phan Trần, do Nguyễn Trác, Lê Tư Thực và Nguyễn Tường Phượng hiệu đính, khảo
thích và giới thiệu, do nhà Văn Hoá xuất bản (Hà Nội, 1961).
Ngoài ra, phải kể đến hai bản in
vừa nôm vừa chữ quốc ngữ sau đây: bản thứ nhất là Phan Trần (roman en vers), do Maurice Durand khảo đính, phiên chuyển
và giới thiệu từ văn bản Phan Trần Trùng
Duyệt (do Thần Khê Đồng Phong Thừa Thư khắc in năm 1904), do École
Francaise d'Extrême-Orient xuất bản (hai tập in ronéo, Paris, 1962); và bản in
mới: Truyện Phan Trần do Trần Nghĩa
khảo đính, phiên chuyển từ bản in cổ nhất hiện còn (bản in đời Tự Đức, 1867),
và giới thiệu, nhà xuất bản Văn Học (Hà Nội) in năm 2009.
Hai bản phiên chuyển ra chữ quốc ngữ có kèm bản nôm này đã chọn hai bản in thuộc hai hệ khắc bản khác nhau, và dù hai bản khắc mà hai vị sử dụng có quãng cách thời gian khác nhau 42 năm thì chúng cũng chỉ là các truyền bản từ những bản in cũ trước đó mà thôi. Tính cách chung của các khắc bản ra đời cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX đều mang sắc thái chữ nôm thế kỉ XIX đã được điển chế nhiều so với chữ nôm những thời kì sớm hơn. Sắc thái chữ nôm điển chế này có lẽ đã định hình từ khi có bộ từ điển Nhật Dụng Thường Đàm của Phạm Đình Hổ (1851). Ngoài lẽ trên liên quan đến chữ Nôm của văn bản, còn yếu tố ngôn từ: hai bản in thuộc hai hệ bản khắc nói trên cũng không cho thấy tính cách cổ hơn của bản in trước, vì đều là ngôn từ sử dụng trong thời cuối Lê - đầu Nguyễn. (Có nhiều từ ngữ trong bản phiên chuyển của Trần Nghĩa được ông cho là "cổ" nhưng vẫn còn ghi lại trong từ điển Taberd (1838). Cho nên muốn thẩm định việc khảo đính văn bản thì còn cần thêm công phu hơn nữa).
Hai bản phiên chuyển ra chữ quốc ngữ có kèm bản nôm này đã chọn hai bản in thuộc hai hệ khắc bản khác nhau, và dù hai bản khắc mà hai vị sử dụng có quãng cách thời gian khác nhau 42 năm thì chúng cũng chỉ là các truyền bản từ những bản in cũ trước đó mà thôi. Tính cách chung của các khắc bản ra đời cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX đều mang sắc thái chữ nôm thế kỉ XIX đã được điển chế nhiều so với chữ nôm những thời kì sớm hơn. Sắc thái chữ nôm điển chế này có lẽ đã định hình từ khi có bộ từ điển Nhật Dụng Thường Đàm của Phạm Đình Hổ (1851). Ngoài lẽ trên liên quan đến chữ Nôm của văn bản, còn yếu tố ngôn từ: hai bản in thuộc hai hệ bản khắc nói trên cũng không cho thấy tính cách cổ hơn của bản in trước, vì đều là ngôn từ sử dụng trong thời cuối Lê - đầu Nguyễn. (Có nhiều từ ngữ trong bản phiên chuyển của Trần Nghĩa được ông cho là "cổ" nhưng vẫn còn ghi lại trong từ điển Taberd (1838). Cho nên muốn thẩm định việc khảo đính văn bản thì còn cần thêm công phu hơn nữa).
(2)
Hoàng Xuân Hãn, Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo
(Nxb. Minh Tân, Paris, 1953), tr. 207-218.
(3)
Theo Maurice Durand. Xem: Digital Collections: Cung Oán Thi (AB. 549): http://findit.library.yale.edu/catalog/digcoll:4671
(4) Xem: Thuỵ Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn & Tạ Trọng Hiệp (Nxb. Văn Nghệ, USA, 2002), tr. 188-189.
(5) Xem: Phạm Văn Diêu, Văn Học Việt Nam (Tân Việt, 1960), tr. 659.
(5) Xem: Phạm Văn Diêu, Văn Học Việt Nam (Tân Việt, 1960), tr. 659.
(6) Tương truyền là khi "bài phú ông
Lượng" được lưu hành từ buổi tế hạ năm Tân Dậu hoàng triều Bảo Hưng
(1801), bài văn đã mau chóng trở thành một hiện tượng văn học đương thời: dân Hà thành hồi ấy đổ xô đi tìm mua giấy
mực về chép lại khiến cho giá giấy phường Hàng Giấy, Hàng Gai vọt hẳn lên.(Theo sách Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn
hiến. Nxb. Lao động, 2009, trang 312.)
Văn Việt, ngày 21/03/2019 (http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/phai-chang-tc-gia-truyen-phan-tran-l-nguyen-huy-luong/)
Hợp Lưu (https://hopluu.net/a3248/phai-chang-tac-gia-truyen-phan-tran-la-nguyen-huy-luong-)