Saturday 29 September 2018


Philiphê Bỉnh


những bài thơ

trong

Nhật Trình Kim Thư 

Khất Chính Chúa Giáo

 





Định Hướng Tùng Thư xuất bản và phát hành lần thứ nhất 2004

Phố Tịnh 
2013 
(có sửa chữa và bổ sung)











LỜI CẢM TẠ


Để thực hiện việc phiên chuyển và chú thích tập bản cảo 
những bài thơ này, tôi đã được Lm Roland Jacques, Gs. Lê Hữu Mục, anh Hiền Quang (Canada), Ts. Nguyễn Đăng Trúc (Pháp) giúp đỡ về mặt tư liệu, và góp ý kiến về các khía cạnh đặc thù của sinh hoạt sống Đạo ở những thời kì xa xưa. 
Xin quý vị nhận ở đây lòng biết ơn và trân trọng của chúng tôi. 

 

 

       Nhật Trình Kim Thư Khất Chính Chúa Giáo

của 
Philiphê Bỉnh

phần IV: Thi thơ
(trang 425 – 467)














Bản hội các Thầy viên hành thơ

Muôn nước nghìn non chí chẳng chồn
Quyết ra tay gỡ mối càn khôn
Cương thường quằn quằn hai vai gánh
Trung nghĩa rành rành một tấc son
Mái bắc trời che thù hãy đội
Cõi tây bể lắc tiết không mòn
Muôn trông ơn đức nhân lành giúp
Non nước còn âu tiếng hãy còn


Hoà

Kẻ chồn có kẻ cũng không chồn
Vì một người là một trí khôn
Mồi nọ ngon lành che lưới sắt
Cơn kia cay đắng giại lòng son
Vàng hay nhạt chữ tình nào nhạt
Đá dầu mòn bia miệng chẳng mòn
Xin hãy cậy trông lời đã phán
Giúp thiêng xưa mất ắt nay còn

             Quí sửu niên
       Ngày mồng 4 tháng 8 năm 1798

            

Chú thích

chồn: mỏi mệt
càn khôn: hai quẻ trong Kinh Dịch, chỉ trời và đất
cương thường: ba giềng mối trong xã hội thời xưa (tam cương), và năm phẩm cách của con người (ngũ thường); ý nói đạo làm người
trung nghĩa: hai phẩm cách cao quý của người xưa (trung thành và có nghĩa) trong quan hệ với những người mình quý trọng
tấc son: một lòng ngay thẳng
tiết: tư cách cao thượng
âu (từ cổ): ắt là, đương nhiên là
giại (từ cổ): chiếu sáng













Xướng thơ

Vó câu từ ruổi việc vàng hoa
Sá chữ bằng an thật kể là
Đạp sóng đã mừng cam chí trẻ
Chắn dòng cơn được thoả lòng già
Tấc gang hằng những mong người dán
Nghìn dặm đừng còn ngại nẻo xa
Trông cậy nhân lành cho hết sức
Giúp thiêng an nước ấy an nhà

Hoà

Thơ yếu nhường bằng đoá liễu hoa
Cám ơn xây đắp xiết đâu là
Áo cơm đã đội dày từ trẻ
Ngay thảo hiềm chưa báo lại già
Nẻo dán lòng hèn chưa dám dán
Đàng xa việc trọng chẳng nề xa
Ơn trên giúp sức muôn phần trọn
Chầy kíp cha con hợp một nhà


Chú thích

vó câu: chân ngựa
ruổi: đi đây đi đó khắp nơi
vàng hoa: từ chữ hán “hoàng hoa”, chì nơi xa xôi
(từ cổ): không kể chi
cam: vừa lòng
dán (từ cổ): xa cách
nhường (từ cổ): dường như
xiết (từ cổ): đủ
hiềm (từ cổ): e ngại
nề (từ cổ): ngại
chầy (từ cổ): chậm
kíp (từ cổ): nhanh chóng
















Xướng thơ

Tinh sứ từ phen ngọn trỏ xa
Tấc lòng khao khát xiết đâu mà
Khêu sầu gió bấc câu năn nỉ
Gảy thảm trời nam nhạn thẩn thơ
Chiếu phượng những trông công cán vẹn
Xe chiên mừng thấy nước non nhà
Ngây hèn được đội hai phần ước
Thoả nỗi đêm ngày luống thiết tha

Hoà

Rừng bể pha phôi mấy dặm xa
Muôn phần bát ngát khác chi mà
Phú hồn phú xác nào năn nỉ
Vì Chúa vì Thầy luống thiết tha
Nghìn dặm trông chừng non với núi
Đòi phen nghĩ nỗi nước hoà nhà
Xin trên giúp sức cho nên việc
Ngõ thoả dân tình kẻo thẩn thơ


Chú thích

tinh sứ: sứ nhà trời đi xuống, ý nói việc ngoại giao nơi xa
thẩn thơ (từ cổ): đi lang thang không định hướng
chiếu phượng: chiếu có hình chim phượng,dành cho nơi quyền quý, ý nói dinh nhà vua
xe chiên: xe của người chăn chiên (cừu), ý nói xe của giáo sĩ 
ngây hèn:ngu dốt, tầm thường; ý nói những người giáo dân bình thường
luống (từ cổ): thường như thế
thiết tha: thương nhớ xót xa
đòi (từ cổ): nhiều
hoà (từ cổ): và, cùng với
ngõ (từ cổ): để cho
thẩn thơ (từ cổ): trông chờ

















Bản hội kí Văn Lịch trẩy đến
     Macao lại trở về thơ

Kìa kìa Lý Vệ đã hay chưa
Danh để nay còn bút lại nhơ
Rơm rác lộc Hồ xem nữa báu
Áo cơm nghĩa Hán mỏng như tờ
Dựa mình hại nhẻ tìm đàng mới
Muối mặt nào còn nhớ nghĩa xưa
Nghĩ chút nước non công lận đận
Thì rằng trước kẻo tiếng bây giờ

Hoà

Nọ tích Ju Đa đã thẩm chưa
Nghìn năm đà lẻ tiếng còn nhơ
Ba mươi tấm bạc cao hơn núi
Một mảnh lòng son mỏng như tờ
Sao đã không màng chi đến trước
Nay còn chẳng đoái lọ là xưa
Ấy là kẻ đã làm tôi Chúa
Gương ấy ai ai cũng phải giơ



Chú thích

trẩy (từ cổ): đi đến nơi xa
nữa (từ cổ): ngang bằng, như
nhẻ (từ cổ): nhỉ!
kẻo: nếu không thế thì
Ju Đa: tên một tông đồ của Chúa Jê su, người đã phản chúa
thẩm: xét kĩ
đà (từ cổ): đã
nhơ (từ cổ): bẩn, dơ
lọ (từ cổ): huống hồ, huống chi
giơ: đưa lên cao

















Kẻ thù ngăn trở thơ

Ba thù chước nọ có đa đoan
Ngăn trở dân lành phải thiệt oan
Miệng nói nhạt lòng người yếu sức
Chân đi dò ý kẻ bền gan
Giơ giang nọ như nhà cao rộng
Đeo đuổi nơi đây của chứa chan
Ấy những miếng ngon lành ở đấy
Nhưng không dử được những người ngoan



Chú thích

chước: mưu kế
đa đoan: rắc rối, phức tạp
giơ giang: phô trương
chứa chan: nhiều không kể xiết
dử: nhử mồi, dụ dỗ
người ngoan: người ngay lành

































Ở tạm nơi thành Macao thơ

Tuy rằng gưởi gắp chốn Macao
Hai chữ thanh nhàn xiết kể bao
Hôm sớm phần hồn dầu mặc sức
Tháng ngày việc xác chẳng tơ hào
Xây vần tám tiết hằng no ấm
Đắp đổi tư mùa khỏi khát khao
Gần chợ gần sông gần núi bể
Trăm mùi không chút vẻ tanh tao



Chú thích

gưởi gắp: gửi gắm, nương nhờ
dầu: mặc kệ, không kể đến
tơ hào: những thứ rất nhỏ bé; ý nói không thèm để ý đến
xây vần: xoay chuyển
tám tiết, tư mùa: thời tiết xoay chuyển trong một năm, ý nói thời gian tròn một năm
tanh tao (từ cổ): mùi tanh hôi





























Làm ngăn trở chẳng cho
     Thầy cả trẩy thơ

Ngây hèn là phận dám nài sao
Xót đấng đà mang chức thánh cao
Đuổi sói chữa chiên cơn lẫn lộn
Xua ong dẹp kiến lúc luông lao
Tuy ngăn Hậu chúa đừng vênh lại
Nhưng sẵn Tào công tiến tuốt vào
Cờ sứ xăm xăm còn phất tới
Giúp thiêng giờ khắc chẳng là bao
            
             Giáp dần niên
Ngày mồng 4 tháng chạp năm là 1794



Chú thích

thầy cả: linh mục
trẩy (từ cổ): đi xa
ngây: ngu đần
nài: đòi hỏi
xót: đau buồn
luông lao: lao lung, gian nan khó nhọc
cờ sứ: cờ của sứ giả























Buồm cột tầu thơ

Mối giềng gìn giữ vốn khăng khăng
Buồm cột chồng lên biết mấy tầng
Dầu nhẫn đông tây long miệng thổi
Thì âu mũi lái vững chân chằng
Ván đồng chẳng ngại cơn dông giật
Neo sắt không cho lớp sóng văng
Tầu ấy tượng như tầu thánh hội
Vững vàng nào phải chạy giăng văng



Chú thích

dầu nhẫn: mặc dầu, dù cho
long miệng: mỏi rã miệng
chằng: kéo căng
tượng: giống như
giăng văng (từ cổ): chạy lăng xăng không rõ hướng


































Ra khơi vào lộng thơ

Chín trăng những vượt bể băng vời
Đo dắn vâng đà biết lộng khơi
Xát xát đòi tầng non với đất
Xanh xanh một bức nước hoà trời
Ngày xem năm bảy đàn chim nhạn
Đêm thấy đôi ba tía cá buôi
Bể bạc mênh mông là thể ấy
Thuận buồm xuôi gió ấy vui chơi



Chú thích

băng: vượt qua
vời: nơi xa xôi
lộng: trống trải
khơi: xa xôi
xát xát: chen nhau, san sát
đòi (từ cổ): nhiều
hoà (từ cổ): cùng với, và
tía (cá): bầy cá
cá buôi: tên một loại cá, mình nhỏ mà béo
thể ấy: như thế

























Những thành phương Thiên trúc thơ

Có nước non thì có cảnh thanh
Nọ nhà trên bến chợ đầu ghềnh
Vực sâu hoáy hoáy sông pha biếc
Đỉnh thẳm mù mù núi nhuốm xanh
Dừa cấy ngổn ngang nghìn dặm dán
Đá xây chồng chịt bốn bề thành
Người xe ngựa bộ đêm đèn nến
Chuông chuyển đồng hồ ấy trống canh




Chú thích

Thiên trúc: xứ Ấn Độ
thanh: đẹp
pha: trộn màu
dán (từ cổ): xa cách
chồng chịt: chen sát nhau
































Thành Cố Lâm Bô thơ

Tới nơi thành cũ Cố Lâm Bô
Thoắt thấy ngờ là cảnh mới tô
Xát xát tường vôi pha thạch lục
Làu làu cửa ngọc ánh kim ô
Xanh om nghìn dặm dừa chồng chịt
Trắng lốp tư bề đá xếp thu
Hoà chợ hoà sông hoà núi bể
Có người cai trị có qui mô



Chú thích

Cố Lâm Bô: Colombo, thành phố lớn của đảo Ceylon
       (nước Sri Lanka)
thoắt (từ cổ): mới tức thì
thạch lục: màu xanh của đá
kim ô: mặt trời chiều màu vàng
xanh om: màu xanh đều khắp
trắng lốp: trắng đều
hoà... hoà... (từ cổ): vừa... vừa...



























Sở bị Phalansa ăn cướp thơ

Giữa năm Ất Mão thương thuận thu
Ngộ Pháp lan sa đạo kiếp đồ
Bảy chiếc buồm giương cờ phấp phới
Ba mồi đạn tống khách nhi nhô
Lạ thay báu vật sao về giặc
Quá ngán lương nhân bỗng phải tù
Khôn xiết đắng cay tam nhật dạ
Mới ra khỏi chốn tạm lâm bô



Chú thích

sở: lúc
Phalansa: phiên âm từ França (Pháp)
thương: trời
ngộ: gặp
đạo kiếp đồ: bọn người không đàng hoàng
đạn tống: đạn súng lớn
khách: người ở xa đến
nhi nhô: nói ồn ào
lương nhân: người ngay lành
khôn xiết (từ cổ): không thể kể hết
Lâm Bô: thành Cố Lâm Bô (Colombo) ? Cũng có thể hiểu là nơi tù ngục u tối, giam hãm những linh hồn của kẻ tà giáo. Trong một bài dịch và chú thích bài thơ trên, gs. Lê Hữu Mục cho rằng đây là dịch từ chữ limbes, tiếng nhà đạo công giáo dùng để chỉ nơi tù ngục, u giới (Roland Jacques & Lê Hữu Mục, ““Sở bị Phalansa ăn cướp thơ”: Một bài thơ của Philiphê Bỉnh”, Định Hướng số 26, tr. 84). Trong ngữ cảnh này có thể hiểu là tác giả đã dùng hình ảnh thành phố Colombo (chốn tạm lâm bô) để nói đến hoàn cảnh khó khăn lâm thời, liên tưởng đến ý niệm thần học xưa, theo tiếng Bồ Đào Nha là limbo, lối phát âm hán–việt  lâm-bô. Khó khăn tạm thời ở Colombo như tù ngục tạm thời để đền tội của các linh hồn sau khi chết theo lối dạy giáo lí xưa.


















Mừng được trẩy sang bên tây thơ

Năm vừa sáu lẻ tháng đầu xuân
Thánh ý xui nên vẹn mọi phần
Bể bắc tuy rằng nghìn dặm dán
Trời tây nhường đã một bên gần
Trước là đội đức trên Thiên Chúa
Sau nữa cam lòng dưới vạn dân
Bĩ cực thái lai là thể ấy
Thật tay công chính khéo quân phân

             Bính thìn niên
Mồng 6 tháng giêng năm là 1796



Chú thích

trẩy (từ cổ): đi xa
dán (từ cổ): xa cách
nhường (từ cổ): dường như
bĩ cực: lúc khó khăn
thái lai: khi tốt đẹp
công chính: công bằng và ngay thẳng
quân phân: chia đều


























Giúp việc kéo dây đi tầu thơ

Từ khi gặp được chiếc tầu thương
Quyết chí ra tay sửa mối giềng
Gá máy nương lèo da nhuốm tuyết
Lần dây gỡ rối tóc đeo sương
Một phen dập dã qua muôn nước
Mấy tháng pha phôi khắp bốn phương
Phần mọn vâng đà cam thửa nguyện
Cám ơn Thiên Chúa bội lòng thương



Chú thích

: ghép vào
nương: dựa vào
lèo: sợi dây kéo
dập dã: bị nhồi, dập vùi
pha phôi: đi khắp nơi
cam: chịu, thoả lòng
thửa nguyện: lời mong mỏi
bội: nhiều



























Tới đất Ma lai thơ

Thấm thoắt đà hầu hết tháng Hai
Tới nơi tên gọi đất Ma lai
Bên rừng lác đác mươi lều cỏ
Ngoài bể lơ thơ mấy chiếc chài
Người bán dừa non người kiếm cá
Kẻ tìm mạch nước kẻ đào khoai
Mô rồ khách thuộc hoà người mán
Ai biết rằng ai hiểu tiếng ai



Chú thích

Ma lai: bán đảo Malacca (xứ Mã Lai)
chài: thuyền đánh cá
mô rồ: người xứ Bắc Phi theo Hồi giáo 
khách thuộc: người từ xa đến
thuộc: quen nếp sống lịch sự
người mán: người địa phương, cũng có ý chỉ những người kém văn minh































Gặp trận bão ở giữa biển khơi
                  thơ

Chưng thủa mênh mông giữa biển xa
Thiên thần thổi một trận phong ba
Cơn mưa sán đến như non nước
Ngọn sóng giồi lên sánh nóc nhà
Người giữ gìn buồm người bẻ lái
Kẻ ăn năn tội kẻ kêu ca
Ba ngày lại tạnh, ơn lành giúp
Sáng trước bên đông lại tró ra

Hoà  

Đang lúc khơi chừng vượt bể xa
Trời tây thoắt biến nổi phong ba
Gian nan ngọn sóng lo vì nước
Xô xát dòng châu lệ sự nhà
Khẩn nguyện cầu bầu Phương tế các
Cậy trông lời chép thánh Luca
Mây mù gió quét lâng lâng sạch
Vậng nhật phương đông lại mọc ra

             Bính thìn niên
       Ngày 12 tháng 3 năm 1796



Chú thích

chưng (từ cổ): vào lúc
sán: tiến sát lại
giồi: nhồi lên
tró: ló ra, nhô ra
khơi chừng: ở nơi xa
lệ (từ cổ): lo ngại
cầu bầu: xin làm trung gian nguyện cầu hộ, bảo trợ 
vậng: vầng













Tới thành bà thánh Helena thơ

Vội vội thành đâu giữa biển xa
Chẳng ngờ núi thánh Hélena
Non xanh giữa lối tầu đi lại
Nước ngọt trong thành suối chảy ra
Rổng rểnh cũng nhiều danh giá cả
Xăm pha có mọi giống người ta
Nhờ ơn lộc nước âu thong thả
Sơn thuỷ hữu dư chẳng lọ là

             Bính thìn niên
       Ngày mồng 2 tháng 4 năm 1796



Chú thích

vội vội: vòi vọi, cao sừng sững
rổng rểnh: lố nhố, nhiều người chen chúc
xăm pha: đi qua lại
âu (từ cổ): hãy cứ
chẳng lọ (từ cổ): không kể đến























 



  Tạ ơn Thiên Chúa
  cập Thánh Mẫu thơ

Rộng rãi nhân thay kể chẳng cùng
Ơn riêng đã xuống vả ơn chung
Hằng nhìn mặt lại và thêm sức
Những mở tay ra lại khiến lòng
Đội bởi đã soi người mái bắc
Cám chưng còn đoái kẻ phương đông
Dâng làm của lễ này hồn xác
Nhậm lấy cho con kẻo thẹn thùng

Hoà

Đội Đức Ba Ngôi kể xiết cùng
Nhân lành rộng rãi vốn là chung
Ngôi Con xuống sức hằng soi trí
Đức Mẹ thêm ơn lại mở lòng
Trước định chúng con tìm cõi bắc
Sau soi chính đấng tới phương đông
Trong ngoài mọi sự vâng theo định
Dẫu nhục dù vinh chẳng thẹn thùng



Chú thích

cập: cùng với
vả: thêm nữa
: lại thêm
hằng: luôn như thế
cám (từ cổ): nhớ
nhậm: nhận
Ba Ngôi: chỉ ba ngôi Thiên Chúa: ngôi Chúa Cha, ngôi Chúa Con và ngôi Chúa thánh thần.
chính đấng: bậc cao quý có chức vị chính thức
thẹn thùng: xấu hổ













Ngợi khen tên cực trọng
  rất thánh Đức Bà thơ

Tôi hèn cả dám thốt lời ra
Kính ngợi khen tên thánh Đức Bà
Ví nước bên đông lòng biển đắng
Nhường sao phương bắc lối tầu qua
Trên nghe kính lạy vui thần thánh
Dưới động kinh hoàng khóc quỉ ma
Ấy thật Chúa bầu loài (kẻ) có tội
Là Thầy dạy dỗ hết dân gia

             Bính thìn niên
Ngày 11 tháng September năm 1796



Chú thích

cực trọng: rất cao quý
rất thánh: thánh thiện lắm
tôi: kẻ tôi tớ  
hèn: nhỏ nhoi không đáng kể
cả: lớn
thốt (từ cổ): nói
: so với
đắng: lặng yên, không sóng gió
nhường: tực như, giống như
bầu (từ cổ): giúp đỡ
Câu 7 thừa một chữ “kẻ”, có lẽ vào lúc sao chép lại





















Tìm thấy thánh Câu rút thơ

Lạy Câu rút thánh giấu bây nay
Tìm tõi làm sao mới thấy rày
Gỗ sức Ngôi Con xưa vác nặng
Giường cao Cha Cả đã nằm đây
Vì dân dưỡng xác tham bùi ngọt
Nên Chúa liều mình chịu đắng cay
Xin hãy theo chân mà gánh vác
Khăng khăng ghi tạc lấy ơn này

             Mậu ngọ niên
       Mồng 3 tháng Majus năm 1798



Chú thích

câu rút: phiên từ tiếng Bồ “Cruz”, chỉ thánh giá
tìm tõi: tìm
khăng khăng: quyết một lòng




























Tạ Đức Chúa Trời mở lòng
Đức Patriarcha ban phước thơ

Ơn này khôn báo xiết đâu mà
Thật Đức Pha tri có khác xa
Đã rộng ơn thiêng quyền giải tội
Lại ban phép trọng lễ Mi sa
Hai dòng Chúa giáo dầu ngăn cấm
Một nước Vu tu được cổi tha
Lạy Chúa Ba Ngôi hằng sáng láng
Vì cho Đấng xét mở tay ra

Hoà

Pha tri Đức Cả kể đâu mà
Vì dủ lòng thương kẻ cõi xa
Nhận lấy tin chưng Thầy Đạc Đức
Ban cho làm lễ thánh Mi sa
Môi sen phép cũ dầu còn buộc
Bá đạc quyền này ắt cũng tha
Ơn bởi Chúa xưa đà phán dạy
Lẽ công đạo chính giảng truyền ra

             Bính thìn niên
       Mồng 10 tháng September năm 1796


Chú thích

Patriarcha: đấng cha cả, bậc giáo chủ 
khôn (từ cổ): không thể
Pha tri: phiên từ tiếng Patriarcha (xem trên)
hai dòng Chúa giáo: hai dòng truyền giáo tại Đàng Ngoài thời bấy giờ (dòng Đa Minh và dòng Tên)
Vu tu: phiên từ tiếng “Vutugues”, chỉ nước Portugal
dủ: tỏ lòng
thầy đạc đức: thầy giảng (theo Huình Tịnh Của), cũng hiểu là chức Giám mục     
lễ Mi sa: lễ missa, một thánh lễ trong Ki tô giáo 
Môi sen: tên vị thánh trong Thánh Kinh Do thái giáo và Ki tô giáo 
bá đạc: phiên từ chữ Phêrô, chỉ quyền của giáo hoàng -người kế vị thánh Phê rô 












Tạ Đức Patriarca Vítvồ
       Cadinale thơ

Quyền cao bảy chức có gồm ba
Đội đức yêu gần lại dấu xa
Lượng bể nào từ chiều nước rặc
Sườn non chẳng quản hạt phù sa
Ban ơn làm lễ Mi sa thánh
Mở khoá thay quyền Bá đạc la
Bắt chước nhân từ lòng Chúa trọng
Làm cho trăm họ được âu ca

             Bính thìn niên
       Ngày 28 tháng December năm 1796



Chú thích

Patriarca: giáo chủ
Vít vồ: giám mục
cadinale: hồng y 
quyền cao bảy chức: ý nói công phu tu tập đã qua đủ bảy "chức" để được thụ phong thầy cả
có gồm ba: ý nói có được ba quyền của vị chủ chiên nhà đạo: dâng lễ, giảng dạy, và chăm sóc linh hồn. 
dấu: yêu thương
nước rặc: nước cạn
bá đạc la: phiên từ chữ Phêrô, chỉ quyền của giáo hoàng -người kế vị thánh Phê rô
khơi chừng: ở nơi xa
lệ (từ cổ): lo ngại
cầu bầu: xin làm trung gian cầu nguyện giúp
trọng: cao quý
âu ca: lời hát thanh bình























Tạ các cụ nhà dòng
ông thánh Philiphê thơ

Cám ơn các cụ ở nhà này
Bởi xót con chiên lạc đến đây
Mọi lẽ bảo ban đều rạng tỏ
Hai phần cấp dưỡng được no đầy
Hằng ngày tế lễ Ba Ngôi thánh
Tuần lễ jê jun một bữa chay
Thánh sủng xin thêm cho các cụ
Ra tay cứu vớt lũ dân ngây

             Bính thìn niên
 Ngày mồng 2 tháng Augustus năm 1796




Chú thích

bởi: vì
con chiên: con cừu con, ý nói giáo hữu
xót (từ cổ): thương
bảo ban: chỉ dạy
cấp dưỡng: phần thức ăn cung cấp hằng ngày
jê jun: phiên âm từ tiếng Latin "Jejunus" có nghiã là  "đói, rỗng ruột". Jê Jun có nghiã là nhịn đói hãm mình chay tịnh 
ngây: ngu đần; Dân ngây là tiếng khiêm xưng chỉ người thường (không có chức thánh), ở đây trỏ người tín hữu.  
























Ngợi khen kính chức Thầy cả
                thơ

Dẫu Chúa dù Vua dẫu Thánh hiền
Một lòng tôn kính đấng chăn chiên
Tuy phần xác thịt nương trung thế
Song phép quyền hành suốt thượng thiên
Giữ khoá thiêng liêng nào dám nhãng
Cầm cân công chính chẳng hề thiên
Mọi ngày mọi có sinh mình Chúa
Thật bẵng lời xưa Chúa phán truyền

Hoà 

Có nhân có đức lại hoà hiền
Mới được thay quyền chính Chúa chiên
Phần xác náu hình còn tạm thế
Việc hồn mở khoá được thăng thiên
Thưởng ngay phạt lỗi khai dòng chính
Chữa lệch phù nghiêng ghét ý thiên
Cổi buộc buông tha dầu ý định
Vì khi trên núi đã ban quyền




Chú thích

dẫu: cho dù, dầu là
đấng chăn chiên: người chăn dắt đàn cừu, ý chỉ bậc giáo sĩ 
nương: nhờ dựa
trung thế: đời bây giờ
thượng thiên: ở trên trời cao
nhãng (từ cổ): quên
thiên: nghiêng về một bên
bẵng (từ cổ): bằng, ngang với
hoà (từ cổ): và, cùng với
câu 16: ý nói Chúa đã trao quyền của mình cho các thầy cả từ khi ở trên núi














Vịnh bổn đạo phương tây giữ lễ thơ

Dẫu dân dù nhẫn đấng làm quan
Ngày lễ ai ai bỏ việc vàn
Đền thánh đàn om cung nhạc nhã
Đàng cù sấm dậy tiếng xe loan
Người phô cẩm tú chiều thanh quí
Kẻ ướp hương hoa vẻ cát nhàn
Vào trước bàn thờ chầu Thánh Thể  
Tai nghe Thầy giảng Thánh Evan

Hoà

Có đấng đồng trinh chẳng phải quan
Ông Bà đi lễ khác muôn vàn
Thương Già chống gậy theo chân khách
Xót Trẻ trèo non quặn ruột loan
Một lúc mất Con càng thảm thiết
Trăm đàng khốn Mẹ chẳng an nhàn
Ba ngày lại thấy trong Đền thánh
Bõ lúc đi tìm những khóc van



Chú thích

dẫu, dù nhẫn (từ cổ): cho dù
việc vàn: mọi thứ việc
om: vang động, ồn ã
nhạc nhã: nhạc cao quý
đàng cù: đường rộng
phô: khoe ra, chưng ra
cẩm tú: đẹp như gấm như thêu 
cát nhàn:ung dung tốt lành
chiều: dáng, vẻ
thanh quý: sạch đẹp
Câu 7: nhắc lại sự tích lạc mất Đức Giêsu lúc ngài còn bé, cùng cha mẹ lên đền thánh Giêrusalem. 



















Vịnh thú Caldas thơ

Thú nào bằng thú Cạ lừ đà
Đến tiết trời thu khách nhởn nhơ
Mấy dặm đàng cù người rổng rểnh
Một nguồn nước suối kẻ xông pha
Ngày ngày hợp mặt vui đầm ấm
Bữa bữa lăn tay chén hê ha
Thong thả âu đà nhờ lộc nước
Khen ơn tạo hoá cảnh này ra

             Canh thân niên
  Thượng tuần tháng Juliuj năm 1800



Chú thích

cạ lừ đà: phiên âm từ “Caldas”, chỉ tên một lễ hội
đàng cù: đường rộng lớn
rổng rểnh: đi lại chen chúc nhau tấp nập
xông pha: đi qua đi lại
hê ha: vui vẻ thoải mái























Mừng sinh nhật Hoàng Thái tử
                    thơ

Sinh nhật Vương tôn đấng trọng cao
Quan dân mừng rỡ biết ngằn nào
Chuông om súng dẫy vang nhường sấm
Nến giỏ đèn chong sáng nữa sao
Mọi vẻ tuy rằng đồ cảnh bạt
Ba ngày nhường đã cõi tiêu dao
Đến ngày rửa tội thêm nô nức
Ngày ấy vui càng xiết kể bao

             Mậu ngọ niên
       Ngày 12 tháng October năm 1798



Chú thích

trọng cao: có vị trí cao, đáng trọng
ngằn: mức độ
om: vang
dẫy: kêu lớn liên tục
nhường: như là
giỏ: nhỏ giọt
chong: thắp sáng
nữa (từ cổ): như là
cảnh bạt: đồ sộ, to lớn
tiêu dao: thong dong dạo chơi
























Vịnh chúc Quan đại tể tướng
                 thơ

Thân quan khang kiện sống man vàn
Giúp trị dân rày được ở an
Quyết chí lấy nhân xua đuổi bạo
Ra tay rửa chính dẹp răn loàn
Phần đời nổi tiếng trong thiên hạ
Phép đạo yêu người khắp thế gian
Hai chữ hiếu trung bền sắc sắc
Đời sau hưởng phúc chốn thanh nhàn



Chú thích

khang kiện: khoẻ mạnh
man vàn: nhiều lắm, ý nói sống lâu
nhân: lòng thương người
bạo: sự tàn ác
chính: đúng đắn
loàn: sai quấy
sắc sắc: chắc
cầu bầu: nguyện cầu

























Tạ Quan Bà cho thuốc cao
                 thơ

Đội ơn trọng ấy biết ngằn nào
Vì gưởi cho rày lọ thuốc cao
Một tễ pha phôi bài thái ất
Đòi phương gia giảm vị tiêu dao
Ngoài không chẳng chút điều bôi bác
Trong lại càng thêm vẻ ngạt ngào
Mặt dán song le lòng chẳng dán
Quân thần nghĩa cả biết là bao




Chú thích

ơn trọng: ơn cao quý
ngằn (từ cổ): mức độ
rày: nay, lúc này
tễ: bài thuốc viên
pha phôi: pha trộn
bài thái ất: bài thuốc nổi tiếng
đòi (từ cổ): nhiều
phương: cách thức
bôi bác: qua loa
dán (từ cổ): xa cách
cả: lớn 

























    Khuyến bạn thơ

Giở đi giở lại một năm dài
Sánh với khi bình cũng bằng hai
Song tiếng phàm tâu thì đã thấu
Và lời ngọc phán chẳng hề sai
Lòng còn khẩn nguyện câu khôi phục
Dạ những mơ màng chữ thái lai
Trót uốn lưỡi câu tìm cá lớn
Tốt mồi xin hãy gắng ngồi dai




Chú thích

khuyến: khuyên, dặn dò
bình: bình thường
khôi phục: gây dựng lại
thái lai: khi tốt lành
trót: đã lỡ
dai: lâu























   





  Khuyến tình thơ

                          Chư giáo hữu

Cách mặt song le chẳng cách lòng
Vậy nên gưởi một bức thư phong
Rõ mười đã phán lòng còn tạc
Quyết một cho bền tiết chớ long
Cậy sức Chúa Con đừng chất ngại
Trông ơn Cha Cả có thong dong
Cây mà vững gốc âu tươi ngọn
Có nước thì âu ắt có dòng

             Kỉ mùi niên
                          Trung tuần tháng Majus năm 1799
        

Chú thích

khuyến tình: dặn lòng
chư giáo hữu: các bạn đồng đạo
song le: nhưng mà
thư phong: phong thư, lá thư dán kín
tạc: ghi nhớ
chớ: đừng
long: đổ gãy
chất ngại: nỗi lo sợ
Chúa Con: Chúa Ngôi Hai, Chúa Giê su
cha cả: cha lớn nhất, ý chỉ Thiên Chúa. (Lối nói của người Công giáo Việt Nam ngày xưa)  
âu: ắt là, tất nhiên
















  



   Khuyến tình thơ

                          Chư Đạc đức

Cách mặt lòng nào dám cách đâu
Vâng thơ một vận đệ về hầu
Xin khi tế lễ ngôi thiêng sáng
Hãy dủ lòng vì chữ dấu âu
Thẩm lại lời lành xưa đã phán
Ban cho ơn trọng mới rày tâu
Thuận buồm tốt gió gần nào dán
Hợp mặt Cha con sẽ có nhau

             Kỉ mùi niên
       Trung tuần tháng Majus năm 1799


Chú thích

chư đạc đức: các vị giáo sĩ
vâng thơ: xin làm một bài thơ
đệ: gửi về
dủ lòng: ngỏ lòng
dấu âu: thương yêu
thẩm: xét kĩ
ơn trọng: ơn nặng
dán  (gián): xa cách

























Phalansa phá thành Roma
                thơ

Thảm nhẽ Pha lan trở nghịch ra
Xông vào cướp lấy nước Ro ma
Dầu lòng phá phách nơi thần thánh
Mặc sức tung hoành thói quỉ ma
Bổn đạo xa gần đều khóc lóc
Con chiên đâu đấy những kêu ca
Lầu son gác tía dầu lòng nó
Đức thánh Pha pha một lánh xa

Hoà

Nghìn một ngũ bách có dư ra
Bỗng chốc tan tành chốn Lộ ma
Đạo rối phá vào nơi đất thánh
Pháp lan sa phải chước tay ma
Chiên lành mất vía run chân bước
Sói dữ dầu lòng vỗ miệng ca
Rày dẫu Chúa chiên còn lánh mặt
Có phen đuổi sói chạy cho xa

             Mậu ngọ niên
Mồng 10 tháng Februarius năm 1798



Chú thích

nhẻ: nhỉ
Phalan: phiên từ chữ França (xứ Pháp)
trở nghịch: quay ngược lại, chống lại
dầu lòng: mặc tình, tha hồ
bổn đạo: xóm đạo
con chiên: giáo dân
Pha pha: phiên âm từ “papa”, nghĩa là cha, ý chỉ Giáo hoàng
nghìn một ngũ bách: một nghìn năm trăm
Lộ ma: phiên âm “Roma” (thành La mã)
đạo rối: đạo không ngay lành
chước: mưu kế











Vua Napoles giúp thánh Igreja
     mà đánh Phalansa thơ

Từ quân kiêu ngạo nó khoe khoang
Chống trả Rô - ma đuổi Giáo hoàng
Nạp bố cất binh lòng quyết thắng
Pháp lan thối trận thế nan đang
Còn làm lễ tạ ơn Thiên Chúa
Đã dủ lòng thương chốn thánh đàng
Tháng chạp thượng tuần năm tám lẻ
Sói rừng mất vía chạy tan hoang

                 Năm 1798



Chú thích

thánh Igreja: hội thánh Công giáo
Phalansa: nước Pháp
Nạp bố: phiên âm từ Napoles (xứ Naples ở Nam Ý)
thế nan đang: tình hình khó chống trả
dủ lòng: ngỏ lòng
tháng chạp: tháng mười hai
thượng tuần: mười ngày đầu của tháng
năm tám lẻ: năm thứ tám của những năm 1790
sói rừng: ám chỉ bọn giặc dữ như sói rừng

























Thượng vị Russia đánh
   được Phalansa thơ

Đà hầu mất mống Pháp lan sa
Bởi Tướng Ru si đánh chẳng tha
Tiến đến ầm ầm vây tuốt lại
Xông vào tướp tướp đuổi thù ra
Còn làm lễ tạ ơn Thiên Chúa
Đã dủ lòng thương chốn Lộ ma
Cuối hạ Kỉ mùi năm chín lẻ
Sói rừng tan tác chạy cho xa

             Năm 1799


Chú thích

Ru si: phiên âm chữ “Russia” (nước Nga)
thượng vị: tướng thống lĩnh
đà hầu: hầu như, gần như
mất mống: mất dấu
bởi: vì
tuốt: hết cả
tướp tướp: từng đợt liền nhau
năm chín lẻ: năm thứ chín của những năm 1790
sói rừng: ám chỉ giặc Pháp

























Được vào chầu chực trong đền Vua thơ                                 

Vâng ban được dự có phiên chầu
Nhiều lúc ra vào cửa gác lầu
Hợp mặt Sa sê hoà Chúa giáo
Chen vai Tể tướng với công hầu
Người đeo dát ngọc quì thân lạy
Kẻ thắt đai vàng đứng gưởi tâu
Ngào ngạt mọi mùi hương phấn ướp
Từ đầu nhẫn gót chẳng còn âu

Hoà   

Lẽ đâu có được dự phiên chầu
Đội đức nghìn trùng ngự gác lầu
Rộng rãi thương yêu người ngoại quốc
Bao dong dấu xót kẻ trung hầu
Xe loan ruổi tới văn quì lạy
Chiếu phượng chen vào vũ đứng tâu
Nhác thấy bệ rồng Hoàng đế ngự
Nhớ lời ngọc phán giãi lòng âu

   Đinh tị niên
    năm 1797


Chú thích

vâng ban: nhận được phép
phiên chầu: buổi chầu tại cung vua
sa sê: phiên âm từ "Sacerdos" (ấn dấu thánh), nói chung là Phép Bí Tích truyền chức thánh biến người thường thành một vị Linh Mục. Chức này do chính Chúa Giê-Su lưu truyền lại cho các môn đệ.
hoà: cùng với, và
Chúa giáo: những người giáo sĩ đạo Thiên Chúa
dát ngọc: vòng nạm ngọc
đai vàng: dây lưng màu vàng
tâu: trình bày
nhẫn (từ cổ): cho đến
âu: lo ngại
nghìn trùng: ý chỉ nhà vua ở trên cao (có lẽ dùng nhầm điển tích “cửu trùng”)
ngự: ngồi
bao dong: chứa hết trong lòng
dấu xót: thương yêu
trung hầu: ngay thẳng
xe loan: xe nhà vua
văn: quan văn
: quan vũ
chiếu phượng: chiếu có  hình chim phương, dành cho người quyền quý
giãi: bày tỏ
âu: thương yêu








Tạ ơn Đức Vua Vutughê thơ

Tâu Vua muôn tuổi ngự khang ninh
Trị nước đời nay được thái bình
Trước chọn Sa sê sang Việt quốc
Nay ban Chúa giáo chính Đông kinh
Mến trên sáng láng ba ngôi thánh
Yêu dưới xa gần một chữ linh
Rất trọng ơn này so núi bể
Xin thêm thánh sủng họ Quân minh

             Tân dậu niên
       Ngày 22 tháng October năm 1801


Chú thích

Vutughê: phiên từ chữ Vutugues, nay là nước Portugal (Bồ đào nha)
khang ninh: yên ổn, thanh bình
sa sê: linh mục, giáo sĩ  (xem chú thích bài trên)
chúa giáo: đạo Chúa
chính: làm cho yên ổn
đông kinh: thành kinh ở phía đông, ý chỉ Đàng Ngoài




























Mừng Vít vồ chính thơ

Cai quản bây lâu tạm Vít vồ
Nay mừng có đấng chính qui mô
Mục dương chọn mặt thay Toà thánh
Chưởng giáo đa tài dự Đốc tô
Thêm rạng thủa này danh Chúa tể
Lại noi quyền trước thánh Tông đồ
Rày âu được gậy cầm tay chắc
Dẹp sói hoà xua hết kẻ thù

             Tân dậu niên
       Ngày 27 tháng October năm 1801



Chú thích

Vít vồ: phiên từ chữ “Vascovo”, chức giám mục
mục dương: chăn chiên
chưởng giáo: người cai quản giáo phận
đốc tô: những người học thông hiểu rộng
noi: theo gương
rày: bây giờ
âu: ắt là, đương nhiên là
hoà: và
























Mừng truyền chức Vít vồ mới
      chính Đông kinh thơ

Bấy lâu thiên hạ những trông mong
Thấy Chúa chiên nay mới thoả lòng
Một đấng Sa sê lên chính chức
Ba Ngôi Chúa giáo xuống biên song
Nay còn nao nức trong phương bắc
Ít nữa vang lừng cả mái đông
Chính đính qui mô quyền chưởng giáo
Vững vàng chống chỏi chẳng còn long



Chú thích

Vít vồ: chức giám mục
sa sê: phiên từ chữ saserdos, chỉ người được ban bí tích làm lãnh đạo tinh thần, linh mục
biên song: nơi xa trung tâm
chính đính: chính đáng, chính thức
long: lỏng lẻo, rời rã






























Mừng Dòng sống lại thơ

Từ được tin lành lót đến tai
Lâng lâng giũ trút nỗi quan hoài
Mừng rày đã rõ câu khôi phục
Kẻo trước còn mơ chữ thái lai
Ấy lửa giấu hình mà sáng gió
Thật cây vững gốc có bền dây
Jê su hội sĩ nay càng thịnh
Lời phán đời xưa thật chẳng sai



Chú thích

lót (= rót): nghe được
quan hoài: nỗi lo buồn. (Nguyên cảo đảo ngược từ này)
khôi phục: gầy dựng lại
thái lai: vận hội tốt lành
hội sĩ: những người đại diện


























    
    Tự tình thơ

Lạy Cha trăm lạy với ba Thầy
Xa dán thêm càng thắc thỏm thay
Chì bấc đã nênh lời nặng nhẹ
Sắt son đừng trơ chốn cao dày
Xây toà cổ dĩ đừng hê mệt
Gỡ mối càn khôn chớ nghĩ chầy
Gưởi trộm mình hương lời đã bén
Mùi hương ai cấm được thơm bay

Hoà

Từ thấy bài thơ bút tích Thầy
Cùng lòng bát ngát kể ghê thay
Dạ đeo mối tưởng thêm càng nặng
Đầu đội ơn thiêng luống đã dày
Dịp trước chửa xong vì những loạn
Phen này ắt kíp chẳng còn chầy
Rành rành tích cũ còn ghi tạc
Thấp thoảng mùi hương đã phảng bay

             Nhâm tuất niên
       Ngày mồng 5 tháng Julius năm 1802

Chú thích

tự tình: tâm sự với mình
xa dán (gián): xa cách
thắc thỏm: lòng không yên
chì bấc: lấy ý câu thành ngữ “tiếng bấc tiếng chì”, lời thị phi đồn đại
nênh: coi nhẹ, xem thường
trơ: làm lơ
cổ dĩ: cây cầu to lớn
: la lên
chớ: đừng
bén: dính, gắn bó
bát ngát: thoáng, thoải mái
ghê: nhiều 
mối tưởng: điều nghĩ ngợi
luống: vốn đã thế
chửa: chưa
chẳng: không
chầy: chậm, lâu
phen: lần
kíp: nhanh chóng

No comments:

Post a Comment

  Phan Châu Trinh - ánh đuốc duy tân xuyên thế kỷ Đoàn Xuân Kiên Những năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về...