Saturday, 22 November 2025

 

Bổ sung và đính chính vài chi tiết

về tiểu sử Nguyễn Huy Lượng

 Đoàn Xuân Kiên


 

Nguyễn Huy Lượng 阮輝諒 (1749-1807) là tác giả của bài phú Tây Hồ Tụng , làm ra trong dịp tế đàn ở Thăng Long, mùa hạ 1801. Tương truyền lúc bài phú mới lưu hành, người người đua nhau sao chép, khiến giá giấy tăng vọt… Bài “phú ông Lượng” –như được gọi thân mật như vậy một thời- đã gắn tên tuổi ông với Tây Hồ, với Thăng Long. Hình ảnh đó vẫn gắn bó với Thăng Long, rồi Bắc Thành, rồi Hà Nội về sau này. Ngày nay, ông nghiễm nhiên là một “danh sĩ” đất Thăng Long, như nhiều sách vở về đất và người Thăng Long từng ghi nhận. Điển hình là những ghi chép của Nguyễn Vinh Phúc trong bài “Nguyễn Huy Lượng” in trong sách Hà Nội: Cõi Đất – Con Người (nxb Thế Giới, Hà Nội, 2005, tr. 295-317). Sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2009, trong đó bài viết về Nguyễn Huy Lượng vẫn không thêm gì mới, ngoài những điều soạn giả đã viết từ trước. Cũng đáng ngậm ngùi là chỉ sau một trăm năm, hình ảnh Nguyễn Huy Lượng trong lòng người đời sau chỉ còn mờ ảo như một người lạ mặt.

Cho đến đầu thế kỉ này, sau hơn trăm năm tìm tõi, những gì chúng ta biết về Nguyễn Huy Lượng có thể tóm tắt trong mấy điểm sau đây: (a) năm sinh năm mất chưa rõ hoặc chỉ là phỏng đoán không rõ ràng; (b) quê quán ông là làng Phú Thị, nhưng gia đình ông lại thiên cư lâu dài, từ Thăng Long qua huyện Chương Mỹ (Hà Đông); (c) ông đỗ Hương Cống đời Lê Trịnh; (d) trước ông làm chức quan nhỏ trong triều Lê Trịnh, sau làm quan triều Tây Sơn tới chức Hữu Tham Tri bộ Hộ, tước Chương Lĩnh Hầu; (e) ông được triệu làm Tri phủ Xuân Trường (Trấn Sơn Nam Hạ) và chết mấy năm sau đó, có lẽ 1808; (g) Thơ văn ông hiện chỉ còn bài phú Tây Hồ, tập Cung Oán Thi. Có thuyết còn cho bài Trận Vong Tướng Sĩ Văn tương truyền là của tổng trấn Nguyễn Văn Thành là của ông. Ngoài ra những thơ văn khác còn trong nghi vấn hoặc chưa tìm thấy đích xác văn bản còn lưu lại… Những thông tin như trên chưa phải là nhiều và xác đáng dành cho một “danh sĩ” như ông. Đã thế, có thể nói, cho đến tận bây giờ, 2025, sách nghiên cứu và sách giáo khoa, các bài viết đăng báo… vẫn nhắc đi nhắc lại những thông tin mơ hồ, hoặc sai lạc về Nguyễn Huy Lượng.

Lúc sinh tiền, Nguyễn Huy Lượng được xem là một khuôn mặt văn học khá nổi tiếng, được giới nho sĩ văn gia xem như một đại biểu của “phái” Phú Thị - là một khuynh hướng văn chương trong số mười hai “phái” của thời Lê Mạt (nửa sau thế kỉ XVIII). Có lẽ Lê Dư là người đầu tiên ghi nhận chỗ đứng của nhà nho văn gia này khi đăng tải bài báo trên Nam Phong (1). Trong bài báo này Lê Dư ghi nhận mười hai khuynh hướng văn học đương thời Lê Mạt như sau:

-         Phái Liễu Ngạn là phái Nguyễn Gia Thiều

-         Phái Mộ Trạch là phái Vũ Duy Đoán

-         Phái Tiên Điền là phái Nguyễn Du

-         Phái Thụy Khuê là phái Phan Huy Ích

-         Phái Cổ Đô là phái Nguyễn Bá Lân

-         Phái Thanh Nê là phái Trương Đăng Quỹ

-         Phái Lai Thạch là phái Nguyễn Huy Tự

-         Phái Phú Thị là phái Nguyễn Huy Lượng

-         Phái Cổ Liêu là phái Phạm Công Trứ

-         Phái Cổ Am là phái Nguyễn Bỉnh Khiêm

-         Phái chúa Nguyễn

-         Phái chúa Trịnh.

Sự chia nhóm, phái như thế chưa phải là thỏa đáng vì chỉ dựa trên địa bàn khu vực lớn nhỏ không đều nhau, qua những thời đoạn khác nhau. Vả chăng, khi nói đến “phái”, người xưa chỉ đơn giản xem một số nhà văn có cùng khuynh hướng làm văn, hay đơn giản hơn, một nhóm nhà văn đồng hương, thậm chí chỉ trong một dòng họ mà thôi. Tuy vậy, có thể thấy là tác giả bài báo, được tiếng là đọc nhiều sách vở Hán Nôm xưa, nên có lẽ cũng theo bước các nhà nho xưa mà ghi nhận Nguyễn Huy Lượng có một chỗ đứng nhất định trong khung cảnh sinh hoạt văn học giai đoạn Lê Mạt (nửa sau thế kỉ XVIII). Hẳn là những ghi nhận như trên phải xuất phát từ thực tế đầy biến động của lịch sử, và nhiều nhân vật đã một thời sôi nổi trong cơn lốc xoáy của lịch sử đã không còn được nhận diện rõ ràng về sau này. Điều đáng ngạc nhiên đối với hậu thế là chỉ hơn trăm năm sau khi Nguyễn Huy Lượng qua đời, sách vở viết về ông thật mơ hồ, như thể ông là một người xa lạ của sinh hoạt văn học giai đoạn Lê Mạt (nửa sau thế kỉ XVIII).

 Hành trình dài tìm lại chân dung “danh sĩ” Nguyễn Huy Lượng

Lần theo kho sách cũ còn lưu lại trong thư viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, từ những năm đầu thế kỉ XX đã có một số văn bản sao chép thơ văn nôm xưa. Chẳng hạn, “Trận Vong Tướng Sĩ Văn” (AB. 297, 383) ghi rằng: “Gia Long nguyên niên, của ông Vũ Lượng (!) làm, ông Nguyễn Văn Thành chủ tế”, bài phú “Tây Hồ Tụng” được chép trong Tây Hồ Phú (AB. 299) và Phong Cảnh Biệt Chí (AB.377), tập Cung Oán Thi ghi là của Bạch Liên Am Nguyễn, được chép trong tập văn nôm có mã số AB 549, và chép rải rác trong Quốc Âm Thi Ca Tạp Lục (AB. 296)… Kho văn nôm cũ kia chỉ được phiên chuyển sang chữ quốc ngữ khá muộn, khởi đầu từ tạp chí Nam Phong. Năm 1924, tạp chí Nam Phong số 85 (th 7.1924) cho đăng lần đầu bài Phú Tây Hồ nhưng thiếu hẳn một đoạn dài. Vài năm sau, một vị độc giả gửi về bài phú chép đầy đủ, nhưng nhà bỉnh bút Nam Phong chỉ có thể giới thiệu sơ sài trong một lời chú ngắn ngủi về tác giả bài Tụng Tây Hồ: “… Truyền rằng bài này của ông Trương lĩnh hầu hữu hộ Lượng làm ra từ đời Lê mạt.” (2)

Mười lăm năm sau, Dương Quảng Hàm (1942) cũng không cho độc giả biết thêm gì về nhà văn này, ngoài vỏn vẹn hai dòng tiểu sử: “Nguyễn Huy Lượng: trước làm quan với nhà Lê, sau làm quan với Tây sơn, được phong tước Chương lĩnh hầu.” (3) trong khi đó soạn giả đã ghi khá chi tiết tiểu sử Phạm Thái, trong 13 dòng chú thích ở cùng trang.(tr 319). Cũng năm này, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1942), trong bài “Tài liệu để đính chính tài liệu văn cổ”, cho biết thêm một chi tiết liên quan đến tiểu sử Nguyễn Huy Lượng: năm 1801, ông làm Phụng Nghị Bộ Lễ, và soạn bài Phú Tây Hồ. (4). Được tiếng là vị học giả cẩn trọng, cụ Tố cũng bị nhầm lẫn chức vụ của ông Hữu tham tri bộ Hộ đời Tây Sơn với chức quan nhỏ ở Bộ Lễ thời Lê-Trịnh.

Tám năm sau đó, Hoàng Thúc Trâm, trong sách Quốc Văn Đời Tây Sơn (nxb. Vĩnh Bảo, 1950), cũng không cho biết thêm gì về tiểu sử Nguyễn Huy Lượng, ngoài những thông tin dẫn lại từ Dương Quảng Hàm trước kia:Nguyễn Huy Lượng: tức Hữu hộ Lượng,trước làm quan với triều Lê, sau theo Tây Sơn, được phong tước Chương Lĩnh Hầu.” (5). Tuy vậy, đáng lưu ý là chính Hoa Bằng cũng đã cho ta biết từ năm 1950, rằng Nguyễn Huy Lượng còn là tác giả Cung Oán Thi để tả cái hận “dê ngấy lá dâu” ở nơi cung cấm. Không thấy soạn giả dẫn nguồn tài liệu nào cho điều khẳng định này. (6)

Trong sách Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo (1953), Hoàng Xuân Hãn cho chúng ta nhiều thông tin mới về Nguyễn Huy Lượng khi ông sao lục được một bản phỏng dịch Chinh Phụ Ngâm không đề tác giả, chỉ biết là của “... một người họ Nguyễn, hiệu là Bạch Liên Am, quán làng Trung Nghĩa, huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc (tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Tác giả sống vào khoảng cuối Lê, đầu Nguyễn, và có để lại một tập thơ đề là Cung Oán Thi, hình như cũng phỏng theo văn cũ.” (7).

Không lâu sau đó, Phạm Văn Diêu cũng cho ta thêm nhiều thông tin về Nguyễn Huy Lượng trong tác phẩm Văn Học Việt Nam (nxb Tân Việt,1960): “Nguyễn Huy Lượng: tức Hữu hộ Lượng, trước làm quan với triều Lê, sau ra thờ nhà Tây Sơn, được phong tước Chương Lĩnh Hầu. Nguyễn Huy Lượng là tác giả  các tác phẩm nôm như sau: Bình tây khúc, Cung oán thi, Hồi loan khúc, Ngự đạo hành cung nhật trình. Tây hồ tụng. (Chú thích 1: Theo Hoàng Xuân Hãn thì Nguyễn Huy Lượng còn là tác giả bài Văn tế trận vong tướng sĩ danh tiếng xưa nay vẫn truyền tụng là của Tiền quân Nguyễn Văn Thành. (Lê Thành Khôi, Le Vietnam. Histoire et Civilisation. Tome I: Le milieu et l’Histoire.Edition de Minuit, Paris, 1955, tr. 348, cước chú số 42 bis). (8).

Cũng thời gian này, tại Hà Nội, nhóm Trần Văn Giáp & Nguyễn Tường Phượng, trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I (nxb. Sử Học, 1962) do Trần Văn Giáp chủ biên, sau khi nhắc lại quê quán của Nguyễn Huy Lượng là “làng Phú Thị, huyện Gia Lâm” lần đầu tiên cho ta biết thêm một chi tiết: “... sau di cư sang làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây”, và cũng ghi Cung Oán Thi là tác phẩm của Nguyễn Huy Lượng. (9)

Như thế là cho đến 1962, chúng ta chỉ được biết rất sơ sài về hành trạng và văn nghiệp của Nguyễn Huy Lượng. Ngoài Phạm Văn Diêu liệt kê một bảng dài các thơ văn của Nguyễn Huy Lượng, các nhà nghiên cứu Hoàng Thúc Trâm, Hoàng Xuân Hãn và Trần Văn Giáp đều nhắc đến tập Cung Oán Thi như một tác phẩm của ông dưới bút danh là Bạch Liên Am Nguyễn hay Nguyễn Huy Lượng.

Từ đó về sau, cho đến những năm gần đây, các tác giả biên soạn sách vở về Nguyễn Huy Lượng như Nguyễn Hữu Sơn (10) và Bùi Hạnh Cẩn (11) cũng không cung cấp thêm gì nhiều về hành trạng và văn nghiệp Nguyễn Huy Lượng, ngoài những thông tin ít ỏi đã có từ trước.

Trong số những soạn giả sách giáo khoa có viết nhiều về Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Lộc đã biên soạn tài liệu giảng dạy văn học sử trong nhà trường đại học, và đã thực hiện sách Văn Học Tây Sơn (1986). Nếu trong Văn Học Tây Sơn, Nguyễn Lộc chỉ lặp lại theo những tài liệu trước kia, cho là “không rõ năm sinh năm mất” (12) thì trong Từ Điển Văn Học (bộ mới), ông đã ghi theo những phỏng đoán của một số nhà nghiên cứu trước đây, rằng “Nguyễn Huy Lượng (?-1808)… chưa rõ năm sinh…). Khi viết mục “Nguyễn Huy Lượng” cho Từ Điển Văn Học (bộ mới) (Nxb. Thế Giới, 2004) cho công chúng một bản tiểu sử có nhiều chi tiết đúng như trước nay vẫn biết, nhưng cũng nhiều thông tin không xác thực. Chúng ta biết được gì từ bản tiểu sử này? Mở đầu bản tiểu sử, Nguyễn Lộc cho biết: “Chưa rõ năm sinh”. Về quê quán thì tác giả cho ta biết: “Nguyên quán làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, sau dời sang làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ,nay thuộc tỉnh Hà Tây, (mà nhóm biên soạn Lược Truyện (1962) đã cho biết). Nguyễn Lộc cũng cho biết thêm: “Các đời trước từng có người đậu Tiến sĩ, làm quan. Nhưng ông thân sinh Nguyễn Huy Lượng thì không đỗ đạt gì, ở nhà chuyên làm ruộng.” (tr. 1148). Nguyễn Huy Lượng thi đậu Hương cống, tức cử nhân. Dưới thời Lê Trịnh, ông được bổ làm Phụng nghi, một chức quan nhỏ ở Bộ Lễ. Sau khi vua Quang Trung  (1753-1792) ra Bắc đại phá quân Thanh, ông ra cộng tác với nhà Tây Sơn, giữ chức Hữu Thị Lang Bộ Hộ (nên mới gọi là Hữu Hộ Lượng). Năm 1802,  triều Tây Sơn sụp đổ, triều Nguyễn lên thay, Nguyễn Huy Lượng bị bắt trong khi quân Tây Sơn rút khỏi Bắc thành chạy lên phía Bắc. Nguyễn Huy Lượng buộc phải nhận chức Tri phủ Xuân Trường của nhà Nguyễn.” (tr. 1148) Về chung cục của Nguyễn Huy Lượng, soạn giả cho biết: “Theo tác giả Minh đô sử, hình như ông bị giết chết trong một trường hợp nào đó năm 1808.” (tr. 1148). Về văn nghiệp của Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Lộc chỉ nhắc lại một số những thông tin đã được người trước công bố. Ông chỉ cho biết thêm rằng: “Bài Lượng như long phú (phú Lượng như rồng) của ông cũng viết trong thời gian này. Ngoài ra ông còn là tác giả của tập Cung Oán Thi  (Thơ về nỗi oán hận của người cung nữ, có tài liệu nói đây là tác phẩm của Vũ Trinh, hoặc Nguyễn Hữu Chỉnh)... (tr 1148). Cũng trong bản tiểu sử này, Nguyễn Lộc cho biết thêm là “Tất cả sáng tác của Nguyễn Huy Lượng đều viết bằng chữ Nôm. Cung Oán Thi là tập thơ gồm 100 bài thất ngôn bát cú (AB 549) gần đây mới được Bùi Hạnh Cẩn xác định chắc chắn là của ông... (tr 1149).(13).

Đoạn văn trên có một số điểm cần bàn thêm: (a) ông thân sinh Nguyễn Huy Lượng không đỗ đạt gì, ở nhà chuyên làm ruộng. Điều này có lẽ không đúng. Một tài liệu cũ có nhắc tới Nguyễn Huy Bá có thái độ không ưa ông nên viết với giọng chê bai, như Hoàng Lê Nhất Thống Chí (14), nhưng cũng cho biết là Huy Bá đương có chức phận ở trong triều, có nghĩa là không “ở nhà chuyên làm ruộng” rồi! (b) Nguyễn Huy Lượng bị buộc phải nhận chức Tri phủ Xuân Trường: không có tài liệu xác đáng nào nói thế. Thực tế Bắc Thành (Thăng Long cũ) có vẻ phức  tạp và phong phú hơn nhiều: từ nhà vua mới (Gia Long) đến các trọng thần như Nguyễn Văn Thành đã có những động thái cầu hiền như được ghi trong Đại Nam Thực Lục Chính Biền, Đệ Nhất Kỉ. (c) Nguyễn Huy Lượng chết mờ ám năm 1808: soạn giả dẫn theo tài liệu Minh Đô Sử của Lê Trọng Hàm, là bộ sách viết hơn 70 năm sau khi Nguyễn Huy Lượng mất, nên có nhiều việc trong sách này chỉ là qua những nguồn tin không còn chính xác. (d) Văn chương của Nguyễn Huy Lượng chỉ toàn văn Nôm: Điều khẳng định này có lẽ còn quá sớm. Thư viện Viện Hán Nôm có một bản thơ chữ Hán có tên Hy Minh Thi Tập (A 2092). Mặc dù văn bản chưa được giám định để có kết luận về tính chân nguy của nó, nhưng chúng ta có thể tin được rằng bút hiệu Hy Minh là một trong những bút danh của ông, như đã được xác nhận ở bài tưa một bản sách của người bạn ông, Tiến sĩ Trần Bá Lãm (15).  

Đến thời gian ấn hành Từ Điển Văn Học (2004), bài phú Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng đã được phổ biến rộng khắp và lâu năm rồi, các nhà giáo và các nhà nghiên cứu hầu như đã nghiền ngẫm rất kĩ bài văn biền ngẫu dài này qua năm này tháng nọ. Chỉ có điều là phần đông dường như không chú ý đến câu văn ở gần cuối bài mà tác giả đã bộc bạch về tuổi tác của mình: “Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du.”, nghĩa là năm 1801, khi ông làm bài Tây Hồ Tụng, tuổi ông đã ngoài 50! Nếu chú ý đúng mức thì các nhà bình giảng đã có thể ức đoán năm sinh của Nguyễn Huy Lượng là khoảng 1750 hoặc sớm hơn, căn cứ từ chính lời ông viết. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc tuy cũng có để ý đến câu văn đó, lại lấy đúng năm 1750 làm năm sinh, bỏ quên lời tác giả là ông nói đã ngoài 50! Thảng hoặc có người lại phỏng đoán sai lạc khi chọn năm 1759 (?) là năm sinh Nguyễn Huy Lượng, không biết vô tình hay dựa trên một nguồn tư liệu nào? (16).

Về năm mất cũng có tình hình tương tự, hầu hết đều ghi năm ông qua đời là 1808, dựa theo lời truyền tụng của người đời sau, như theo sách Minh Đô Sử  của Lê Trọng Hàm chẳng hạn.

 Bổ sung một số thông tin liên quan đến tiểu sử Nguyễn Huy Lượng

Từ sau Từ Điển Văn Học (bộ mới), học giới đã có thêm nhiều thông tin giúp bổ sung vào bản hành trạng và sự nghiệp văn học của ông.

1. Về năm sinh của Nguyễn Huy Lượng: Nay ta có một bút chứng khá chắc chắn ghi chép trong bản gia phả Nguyễn Gia Phả Ký (Siêu Loại – Bắc Ninh), là gia phả bên ngoại, trong đó có đoạn ghi như sau về người con gái út của Siêu Quận công Nguyễn Gia Châu, tức là thân mẫu của Nguyễn Huy Lượng:

23g. Con gái út: húy Thị Tuệ, gả cho quan Đông các Đại học sĩ Nguyễn Huy Bá người Phú Thị huyện Gia Lâm, sinh được 4 người con trai và 2 người con gái (con trai cả húy Huy Lượng, đăng Hương tuyển khoa Tân Mão, sinh được 3 người con trai và 2 người con gái: con trai cả húy Huy Hanh, con trai thứ hai húy Huy Dự, con trai thứ ba húy Huy Đỉnh, con gái húy Lệ Hoa, con gái thứ húy Diễm Hoa; con trai thứ hai húy Huy Lãng, sinh được 2 người con trai: con trai cả húy Huy Phàn, con trai thứ húy Huy Mưu; con trai thứ ba húy Huy Đễ; con trai út húy Huy Hành; con gái lớn húy Thị Nhu; con gái thứ húy Thị Miên)." (17)

Qua mấy giòng ngắn ngủi ghi trong gia phả này, chúng ta biết cha Nguyễn Huy Lượng là quan Đông các đại học cưới con gái út của Siêu quận công Nguyễn Gia Châu là bà Nguyễn Thị Tuệ, sinh được bốn người con trai và hai người con gái. Nguyễn Huy Lượng là con trai trưởng, đỗ Hương khoa năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng 32 (1771). Nguyễn Huy Lượng có ba người con trai và hai người con gái.

Ở một đoạn khác, gia phả cho ta biết năm sinh của Nguyễn Huy Lượng: “A3'. Giáp Tam Nữ*5* A3'.a. Chi Giáp thuộc Giáp Tam Nữ: Huy Lượng (Kỉ Tị) sinh ra: Huy Hanh, Huy Dự, Huy Đỉnh, Thị Lệ Hoa, Thị Diễm Hoa…" (18). Đoạn ngắn trên cho biết một thông tin chính xác về năm sinh của Nguyễn Huy Lượng: năm Kỉ Tị (1749), và đầy đủ tên họ những người con và cháu của bà con gái út Siêu quận công Nguyễn Gia Châu, ghi hai lần trong gia phả, không có sai chạy chi tiết.

Trong khi chờ đợi đối chiếu với gia phả dòng họ Nguyễn Huy ở Phú Thị, những ghi chép trong gia phả họ Nguyễn Gia ở Siêu Loại có thể tin được là không sai chệch lắm nếu không nói là đáng tin, vì những đoạn ghi về thế hệ 23 nhà Nguyễn Gia là từ một người con của Nguyễn Gia Thiều chấp bút năm 1803, khi người chú họ của ông là Nguyễn Huy Lượng còn tại thế.

2.Trước nay sách vở chỉ ghi chung chung là Nguyễn Huy Lượng đỗ Hương Cống trong thời Lê Trịnh. Quả thật, nếu có truy lục trong những bộ Đăng Khoa Lục cũ hay cả bộ Khoa Cử Việt Nam: Hương Cống Triều Lê (nxb. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2019), cũng không tìm thấy thông tin về Nguyễn Huy Lượng đỗ Hương Cống khoa Hương thí nào. May thay, Gia Phả họ Nguyễn Gia cung cấp cho ta thông tin quý giá ấy: Nguyễn Huy Lượng “đăng Hương tuyển khoa Tân Mão (1771)”, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32.(17)

3. Về năm mất của Nguyễn Huy Lượng: Hiện nay, chúng ta có một chứng khá rõ. Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất Kỷ, Quyển XXXIII có đoạn ghi như sau: “Tháng 11: Ở Sơn Nam Hạ giặc nổi, vây phủ Thiên Trường. Tri phủ Nguyễn Lượng và Cai Đội Nguyễn Văn Đại đều chết trận… Tặng Nguyễn Lượng làm Hàn Lâm Viện, Nguyễn Văn Đại làm Cai Cơ, mỗi người được một người con tập ấm.” (19). Đối chiếu với tây lịch thì ông mất vào Tháng 12 năm 1807, niên hiệu Gia Long thứ 6.

Tóm lại, ngày nay chúng ta đã có thể có những thông tin xác đáng về Nguyễn Huy Lượng, qua rồi thời mà các nhà nghiên cứu phải phỏng đoán mơ hồ, nhiều khi sai lạc: Nguyễn Huy Lượng sinh năm Kỉ Tị (1749), đậu Hương Cống năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771), và qua đời vì chết trận Tháng 12 năm 1807.

                                                         Đoàn Xuân Kiên

                                                                Văn Việt, ngày 23/11/2025

(1) Lê Dư, “Nguồn gốc văn học nước nhà và văn học mới”, Nam Phong số 190 (th. 6 1933), tr. 399-408.

(2)“Văn cổ đời Lê”, Nam Phong số 113 (th 1. 1927, tr. 50).

(3) Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Bản in kì 10. Bộ Giáo Dục, Sài Gòn, 1968, tr. 319.

(4) Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, “Tài liệu để đính chính tài liệu văn cổ”, Tri Tân, số 51 (17/6/1942), tr.10.

(5) Hoàng Thúc Trâm, Quốc Văn Đời Tây Sơn. Nxb. Vĩnh Bảo, Sài Gòn,1950, tr. 115.

(6) Hoàng Thúc Trâm, Sđd, tr. 118.

 (7) Hoàng Xuân Hãn, Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo. Nxb. Minh Tân, Paris, tr. 29.

(8) Phạm Văn Diêu,  Văn Học Việt Nam. Nxb. Tân Việt, 1960, tr.659-660.

(9) Trần Văn Giáp chủ biên, Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I. Nxb. Sử Học, 1962, mục 374,  tr 347-348.

(10) Nguyễn Hữu Sơn, Cung Oán Thi. Nxb. Văn Hóa Thông Tin, 1994, tr. 11-12.

 (11) Bùi Hạnh Cẩn, Tổng tập thơ phú nôm của Nguyễn Huy Lượng. Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 1996.

(12) Nguyễn Lộc, Văn Học Tây Sơn. Nxb. Sở Văn Hóa-Thông Tin Nghĩa Bình, 1986, tr. 352.

(13) Nguyễn Lộc, mục từ “Nguyễn Huy Lượng”, Tự Điển Văn Học (bộ mới). Nxb. Thế Giới, 2004, tr.1149.

(14) Đoạn ghi trong  Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Hồi 1): “Hồi đó, có Nguyễn Huy Bá người ở Gia Lâm (làng Phú Thị, huyện Gia Lâm) tính tình nham hiểm, giảo hoạt, thường vẫn quen thói tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Năm trước, chính vì Bá đã tố cáo âm mưu nổi loạn của Nguyễn Huy Cơ và Thuỵ quận công mà y được làm chức tham nghị ở trấn Sơn Nam, dần dà, y ngoi lên chức tiến triều, rồi lại thăng tới chức đốc đồng ở trấn Thái Nguyên. Lúc này vì có lỗi bị cách chức, y đang nóng lòng mong lại được ra làm quan.” (Bản dịch của Nguyễn Đức Vân & Kiều Thu Hoạch. Nbx. Văn Hoc, 1987, tr. 20-21.)

 (15) Việt Anh, “Hy Minh với Nguyễn Huy Lượng có quan hệ như thế nào?”. Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.27-31.

(16) Việt Anh, bài đã dẫn, tr. 27.

(17) Chương Trình Nghiên Cứu Gia Phả Việt Nam, Nguyễn Gia Phả KýLiễu Ngạn- Bắc Ninh. Bản dịch của Nguyễn Văn Nguyên. Nxb. Thế Giới, 2004, tr. 173.

(18) Nguyễn Gia Phả Ký, Sđd, tr. 203.

(19) Quốc Triều Sử Quán, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất Kỷ, Quyển XXXIII bản dịch của Viện Sử Học, nxb. Giáo Dục, 2002, tr. 712

 

 

 

 

Wednesday, 29 January 2025

 

Nguyễn Huy Lượng

một phong cách văn chương tài hoa

Đoàn Xuân Kiên

                                           Nhớ Gs Lê Hữu Mục

                      


Công chúng văn học thường gắn tên tuổi Nguyễn Huy Lượng với tác phảm duy nhất là bài phú Tây Hồ. Cho đến nay, dường như chúng ta không biết gì nhiều về con người nhà văn này trong bối cảnh xã hội và văn học nơi ông sinh ra và làm việc trong suốt một quãng dài cuộc đời ông. Rất ít tài liệu sách vở viết về ông một cách mạch lạc và đầy đủ. Có thể nói Nguyễn Huy Lượng vẫn là một khuôn mặt mờ nhạt, lạ lẫm trong lịch sử văn học nước nhà thời cận đại.

 Tôi quan tâm đến tác gia Nguyễn Huy Lượng trước tiên là qua bài phú Tây Hồ (còn gọi là Tây Hồ Cảnh Tụng, hay Tây Hồ Phú). Đây là một bài phú dài, có văn phong đa dạng, thể hiện phong cách một văn tài. Từ sự ngưỡng mộ đó, tôi để ý tìm đọc các tác phẩm khác của ông nhưng không gặp ở đâu những dẫn liệu liên quan đến văn nghiệp Nguyễn Huy Lượng. Tôi tự thắc mắc: chẳng lẽ đây lại thêm một trường hợp khác trong muôn một trường hợp mà tác giả chỉ còn lưu lại một tác phẩm? Thật khó tin một nhà văn đã viết được Tây Hồ Phú mà không còn để lại thêm một tác phẩm nào. Từ thắc mắc này, tôi càng để tâm tìm tòi về ông.

 Xét cho kĩ thì không hẳn là vì thiếu thốn tài liệu xác tín mà chân dung Nguyễn Huy Lượng không được khắc họa rõ rệt. Sự thực thì có khá nhiều tài liệu liên quan xa gần đến con người và tác phẩm Nguyễn Huy Lượng, nhưng phần lớn chúng nằm rải rác trong các sách vở của nhiều nhà nghiên cứu hiện đại và trong các thư tịch cổ còn sót lại cho đến nay. Một điều kém may mắn mà tình cờ lại là một điều hay cho việc truy tìm Nguyễn Huy Lượng, là qua các biên chép bên lề một số nghiên cứu về một tác giả khác nào đó mà chúng ta hôm nay có được ít nhiều văn liệu góp phần soi rõ nhân dáng và văn nghiệp Nguyễn Huy Lượng. Tôi sẽ dẫn ra những trường hợp ấy khi giới thiệu lại các tác phẩm của ông.

 Cũng qua những đối sánh tài liệu hiện còn, tôi cố gắng vẽ lại khuôn dáng con người Nguyễn Huy Lượng, trong nỗ lực vượt bỏ tình trạng thường gặp trong các sách vở viết về Nguyễn Huy Lượng, là không rõ năm sinh, năm mất, không rõ gia thế ông, không biết ông hoạt động ra sao qua các triều đại Lê mạt, Tây Sơn, và Nguyễn triều .

 Mặc dù tôi không tự nhậm phần việc của người viết văn học sử mà chỉ muốn dừng lại ở việc tìm hiểu văn phong của ông, tôi vẫn thấy là sưu lục và hiệu khảo các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Lượng cũng là phần việc đáng làm đối với một tác gia đa tài trong một thời kì văn học khá phát triển sôi động nhưng nay có phần kém may mắn hơn một số khá nhiều những tác gia cùng thời kì này nhưng lại được biên chép nhiều, như thể chỉ có họ mới là những tác gia lớn.

 Sau khi đã xác lập một số điểm cần thiết về con người và tác phẩm của ông, tôi sẽ dành trọn phần chính để tìm hiểu về phong cách văn tài Nguyễn Huy Lượng. Vẫn biết là tìm hiểu phong cách nhà văn thì cần dựa vào tác phẩm chính xác của họ. Tuy vậy, trong điều kiện văn liệu và tình hình khoa hiệu khảo văn học hiện nay, tôi tạm bằng lòng với những văn bản đã được khảo đính trong tập sách mỏng này.   

 

Thiên nghiên cứu này được thai nghén từ những năm tôi tham gia giảng dạy Đại Học Hè (châu Âu) trong thời gian 1999-2003. Tại những khóa hè này, tôi gặp lại vị thầy cũ, giáo sư Lê Hữu Mục, và có bàn bạc nhiều về những vấn đề văn học Việt Nam. Đấy là một điểm chung mà hai thầy trò gặp gỡ, ngoài những đam mê chính của mỗi người (thầy Mục thì chuyên về chữ Nôm, tôi về ngữ nghĩa và phong cách học). Đề tài này tôi đã được thầy khích lệ thúc giục tôi hoàn tất; nhưng thời gian ấy tôi chưa giải được một khó khắn lớn là tìm được những văn liệu cần thiết để làm việc; tác phẩm của Nguyễn Huy Lượng trong thời gian này khá rời rạc, tản lạc. Không thể nói về phong cách nhà văn nếu tôi chưa tìm được nguồn văn liệu xác thực hay khả dĩ đáng tin là của nhà văn để lại. Nay thì giáo sư Lê Hữu Mục đã qua đời, không được nhìn thấy chút quà mọn của môn sinh.  

                                                    London, 29/01/2025

                                                     Đoàn Xuân Kiên

Saturday, 28 October 2023

 Phan Châu Trinh

- ánh đuốc duy tân xuyên thế kỷ

Đoàn Xuân Kiên



Những năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội do tác động trực tiếp và sâu bền của công cuộc duy tân mà cụ Phan và các bạn đồng chí hướng cùng gây thành một phong trào quần chúng sâu rộng.

Phong trào duy tân dấy lên sôi động trong một thời gian ngắn, từ năm 1905 đến 1908. Dù nhìn từ những góc độ nào, các nhà bình luận đều công nhận cụ Phan là lãnh tụ tiên phong của phong trào duy tân Việt Nam (chẳng hạn, ý kiến của học giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Xuân) (1). Từ ngày cụ Phan qua đời đến nay đã 90 năm rồi mà xem chừng hậu thế vẫn chưa khép lại những lời cái quan định luận. Bao nhiêu giấy mực xem ra vẫn chưa đủ nói về một con người đã nằm xuống, bao nhiêu lời tranh luận phát xuất từ nhiều góc nhìn xem chừng vẫn chưa ngã ngũ. Các nhà bình luận có thể đồng ý với nhau đến chừng mức như vậy, sau đó thì các ý kiến có vẻ phân tán: người thì bảo rằng chủ trương của cụ Phan là không tưởng (Phạm Văn Sơn) (2), người thì cho rằng cụ Phan đã thất bại trong việc lãnh đạo phong trào duy tân đến đích sau cùng của nó là làm thay đổi đất nước sang bước ngoặt mới (Huỳnh Lý)(2).

Xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX đã chứng kiến một cuộc khủng hoảng về mọi mặt: (a) về mặt chính trị, đất nước dần mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp. Công cuộc cần vương và văn thân đã bị đàn áp và tiêu trầm; (b) về mặt kinh tế thì thực dân Pháp bắt đầu khống chế và khai thác thuộc địa; (c) về mặt văn hoá, Nho học bị mất dần vai trò ý thức hệ chủ đạo. Chính trong thời gian này, làn sóng “tân thư” từ Trung Hoa tràn qua đã góp phần thức tỉnh một số nhà nho có ý thức cấp tiến. Kết quả là tại kinh đô Huế những năm ấy đã chuyền tay nhau bản luận văn “Thiên hạ đại thế luận” do nhà nho Nguyễn Lộ Trạch biên soạn. Năm 1903, khi vào kinh nhận chức quan thừa biện bộ Lễ tại Huế, cụ Phan đã sớm được đọc và tâm đắc với những luận điểm mới mẻ của thiên đại luận này. Những tư tưởng mới do tân thư đem lại đã sớm đưa cụ Phan và những nhà nho cấp tiến cùng thế hệ dứt khoát từ bỏ quan trường của chế độ phong kiến đương thời và đề xướng con đường duy tân mà các cụ tin tưởng sẽ đem lại tương lai mới cho đất nước.

Thế là cụ Phan và hai người bạn đồng chí hướng là hai ông nghè Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp lên đường hô hào duy tân. Cơ duyên đầu tiên để phát động phong trào là tại trường thi khảo hạch Bình Định. Ba nhà trí thức trẻ học vấn uyên thâm đã làm kinh động quan khảo hạch cùng sĩ tử trong trường thi khi được nghe đọc quyển văn gồm có bài thơ “Chí thành thông thánh” và bài phú “Danh sơn lương ngọc” do chính ba nhà khoa bảng trẻ giả dạng làm một nho sinh vào trường khảo hạch. Quyển văn của ba vị khoa bảng thác danh là Đào Mộng Giác này đã công khai hô hào cảnh tỉnh học trò sĩ tử còn mê muội với từ chương thi phú, ham công danh quên đất nước đang chìm trong vòng nô lệ. Khi chính quyền điạ phương truy lùng tác giả các bài trên thì các cụ đã rời trường thi mà tới Nha Trang trong nỗ lực tổ chức những hoạt động duy tân.

Sau chuyến nam du ấy, các cụ Phan, Huỳnh và Trần đã liên lạc với một số nhà nho trẻ và tiến bộ tại các nơi ba vị qua, nhằm mục đích thành lập các cơ sở doanh nghiệp, mở trường học chú trọng thực nghiệp, và tổ chức các nền nếp sinh hoạt theo tinh thần mới. Cơ sở nước mắm Liên Thành ra đời tại Phan Thiết, hàng loạt các cơ sở làm kinh tế hợp tác ra đời tại Quảng Nam: các thương hội, dệt các thứ vải dày có thể may âu phục. Cụ Phan đích thân làm gương cắt may, mặc bộ đồ tây bằng vải nội, hàng vải tơ lụa nội hóa được cải tiến. Lúc đó, làng Bảo An (Ðiện Bàn) nổi tiếng dệt đẹp, có thể cạnh tranh với tơ lụa Trung HoaLần lượt các nông hội phát triển tại Yến Nê (Ðiện Bàn) rộng chừng 20 mẫu, trồng khoai, sắn, bắp, cho trồng cây dương liễu để cản gió theo hai bên bờ sông. Mỹ Sơn (Duy Xuyên) rộng khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn (Ðại Lộc) khai phá nông trường để trồng lúa.

Các thương hội lần lượt được tổ chức có phương pháp đã đạt những thành quả tốt, như thương hội Phong Thử (Ðiện Bàn) do Phan Thúc Duyện trông coi, điạ điểm thuận lợi cho việc giao thông bằng đường thủy ghe lớn có thể cập bến được, tấp nập người đến buôn bán. Hội An thương cuộc do ông bang Kỳ Lam phụ trách bán đủ loại sĩ và l các mặt hàng vải, gạo, đường, quế. Đặc biệt là các cơ sở thương nghiệp này cũng làm ăn theo cung cách mới: trên các món hàng bày bán đều có định giá rõ ràng, người bán hàng lịch sự tiếp khách… Phong trào duy tân tại Quảng Nam những năm ấy đã xây dựng được một cơ sở điển hình làm ngọn cờ đầu tại Phú Lâm (Tiên Phước) do Lê Cơ (1870-1918) tổ chức chương trình khuyến kích công thương nghiệp, chỉnh đốn cơ sở chính quyền, cơ sở giáo dục và sinh hoạt xã hội theo hướng duy tân.

Những thành tựu đầu tiên tại Quảng Nam đã từ từ ảnh hưởng đến thay đổi sinh hoạt khắp nơi. Tại Nghệ An lúc ấy cũng đã hình thành cơ sở duy tân với những thương hội do các nhà nho cấp tiến như ông nghè Ngô Đức Kế dẫn đầu. Các nhà nho tiến bộ tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương nghiệp là ông Ðỗ Chân Thiết mở hiệu Ðồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, mở tiệm thuốc Bắc Tụy Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng Tăng Bí mở hiệu Ðông Thành Xương ở Hàng Gai. Tại Sài Gòn có Minh Tân Khách Sạn của ông Phủ Chiếu.

Ngoài các cơ sở nông hội và thương nghiệp, phong trào duy tân còn là cuộc cách mạng lớn trên mọi lãnh vực đầu thế k 20. Các trường dạy thêm chương trình chữ quốc ngữ lan rộng trên khắp nẻo đường đất nước. Cao điểm của hoạt động văn hoá giáo dục duy tân là việc mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội năm 1907.

Sau chuyến bắc du ra Nghệ An và Hà Nội, cụ Phan đã sang Nhật qua đường dây Đông du để đích thân điều nghiên tình hình công cuộc Đông du cầu ngoại viện của cụ Phan Bội Châu. Từ chuyến Nhật du trở về, cụ Phan đã gửi một bức thư dài đề ngày 01/10/1906, gửi Toàn quyền Beau, nội dung phê phán đường lối cai trị cùa nhà đương cục. Cụ Phan nêu ra ba nguyên nhân dẫn đến tình cảnh bi đát của nước nhà buổi ấy, ấy là: (a) chính phủ Bảo hộ dung túng quan lại Việt Nam thành ra cái tệ "cô tức"; (b) chính phủ khinh rẻ dân Việt Nam thành ra cái tệ xa cách; (c) các quan lại Việt Nam nhận ra cái tệ xa cách ấy mà thành ra cái tệ hà hiếp dân. Bức thư này thường được sách vở gọi là “Đầu Pháp chính phủ thư”, đưa ra một số đề nghị cải cách lề lối cai trị theo hướng khai hoá dân trí, mở mang giáo dục và chấn chỉnh chế độ quan lại. Bức thư này có thể xem là mở đầu cho hàng loạt nỗ lực nêu cao chủ trương “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” mà cụ Phan bền bỉ theo đuổi suốt đời. Bức thư năm 1906 của cụ Phan sau đó cũng được chuyền tay khắp nơi, đã gây chấn động trong công chúng cũng như giới quan lại.

Chỉ trong một thời gian ngắn, ba năm (1905-1907), các cơ sở công thương và nông nghiệp, trường học đã dấy lên làn sóng duy tân cao độ, khiến nhà nước bảo hộ lo ngại. Khi phát khởi phong trào nông dân biểu tình kháng thuế tại Trung kì năm 1908, nhà nước bảo hộ đã nhân cơ hội này ra tay trấn áp dữ dội, bắt bớ các nhà nho bị xếp vào sổ đen những người cầm đầu phong trào dân chúng có hành vi bạo động phản kháng chính quyền bảo hộ qua cuộc biểu tình rầm rộ mà sử sách gọi là cuộc “Trung Kì Dân Biến”. Cụ Phan và hàng loạt các nhà nho lãnh đạo phong trào duy tân mới dấy khởi lần lượt bị bắt bớ, và xử án rất nặng, hoặc là đày ra Côn Đảo (cụ Phan và rất đông các vị lãnh đạo phong trào tại khắp nơi), hoặc bị xử chém (cụ nghè Trần Quý Cáp, Trần Thuyết, Ông Ích Đường...). Sau đợt bắt bớ tù đày đó là cuộc khủng bố toàn diện nhằm mục đích xoá bỏ mọi dấu vết của phong trào duy tân vừa phát khởi và còn non trẻ.

Dầu vậy, ngọn lửa duy tân không hề tắt. Do kết quả của các vận động trong công luận Pháp thông qua các nhà trí thức hoạt động trong Hội Nhân Quyền Pháp, cụ Phan và các vị lãnh đạo phong trào duy tân lần lượt được trở về đất liền. Cụ Phan đã chọn con đường sang Pháp đấu tranh tại chính xứ sở của cuộc cách mạng dân quyền. Từ đây cụ Phan bắt đầu những ngày tháng hoạt động duy tân tại đất Pháp.

Ngay từ những buổi đầu tại Paris, cụ Phan liên kết được với một số nhà trì thức Việt Pháp để cùng hoạt động. Cụ Phan cùng Phan Văn Trường trở thành cột trụ của phong trào Việt Kiều tại Pháp trong buổi đầu. Hai vị soạn các bản điều trần gởi cho chính phủ Pháp, nêu rõ tình cảnh Việt Nam dưới chế độ bảo hộ Pháp: không có tự do, bị bắt bớ tù đày... Cụ Phan soạn “Trung Kỳ Dân Biến Thỉ Mạt Kí, Jules Roux dịch sang Pháp văn để đệ trình chính phủ Pháp nhằm kêu oan cho Trần Quý Cáp và nỗi oan ức của người Việt b trấn áp sau đợt dân chúng biểu tình xin giảm sưu thuế tại Trung kì, gi thư phản đối chính sách bảo hộ tại Việt Nam.

 Trong 14 năm hoạt động tại Pháp, cụ Phan không ngừng vận động trong giới kiều bào tại Pháp cùng dư luận bản xứ trong nỗ lực vận động duy tân cho nước nhà. Cụ Phan cùng các bạn Việt Pháp dùng phương tiện báo chí, diễn thuyết để hoạt động liên tục trong thời gian này. Lần lượt, cụ Phan và nhóm bạn kiều bào trong Hội đồng bào thân ái tại Paris đã liên tục có những hoạt động theo chủ trương duy tân. Năm 1913, cụ viết báo phản đối việc làm thiếu đạo đức của Khâm sứ Mahé trong việc đào lăng vua Tự Ðức tìm vàng, đi diễn thuyết trong tập thể kiều bào, kêu gọi lòng yêu nước hướng về quê hương và thường tiếp xúc với người Pháp có lòng nhân đạo bác ái, bày tỏ nguyện vọng của mình và chỉ trích chính sách cai trị tàn ác của Pháp ở Ðông Dương...

Năm 1919, Cụ Phan và luật sư Phan Văn Trường đưa ra bản yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Versailles năm 1919 mà yêu sách thứ 3 có liên quan đến quyền tự do báo chí và tự do tư tưởng.

Suốt đời, cụ Phan cho rằng quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là tiền đề để thực hiện các quyền tự do căn bản khác của người dân. Ta biết rằng khi về nước diễn thuyết về “Đạo đức và luân lý Đông Tây”, cụ có nói thế này: “…chí như đời bây giờ được tự do ngôn luận, được tự do xuất bản, được tự do diễn thuyết thì những người ra lo việc nước, việc đời bên họ biết là bao nhiêu.”

Một chi tiết khác dưới đây cũng cho thấy thêm niềm xác tín của cụ Phan về quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng: khoảng những năm 1922-1923, cụ Phan và một bạn Việt kiều tên là Trần Lê Luật có ý định thành lập một “diễn đàn“ của người Việt tại Paris. Bản kế hoạch lập “Việt kiều diễn đàn” cho rằng:  “Diễn thuyết không bằng cách ‘định luận’, nghĩa là lời diễn thuyết dù phải dù chẳng (phải) không ai được cãi lại, nhưng dùng cách ‘nghịch luận’ để ai nấy được tự do biện luận cho xác lẽ phải chăng”. Điều này cho thấy cụ Phan đã đi sớm trước thời đại mình và xây dựng một quan niệm về đa nguyên tư tưởng rất phù hợp với phương pháp tư duy khoa học hiện đại.

Nhân chuyến du hành của vua Khải Định sang Pháp dự cuộc đấu xảo tại Marseilles năm 1922, cụ Phan biện soạn một bức thư dài mà về sau được gọi là “Thư thất điều”, gửi cho vua, trong đó cụ hài ra bảy tội lớn của ông vua bù nhìn này: (1) tôn quân quyền, (2) thưởng phạt không công bình, (3) chuộng sự quỳ lạy, (4) xa xỉ vô đạo, (5) phục sức không đúng phép, (6) du hạnh vô độ, (7) sự ám muội trong việc Pháp du. Kết thư, cụ Phan cho rằng không những vua xứng đáng bị phế truất mà chính cái chế độ “quân chủ hiện tại phải truất, mà xét đến nguồn gốc nguyên nhân sâu xa, thời quân chủ các thời đã qua cũng không tránh khỏi búa rìu công luận của quốc dân vậy”.

Bức thư dài này sẽ hô ứng rất nhịp nhàng với những luận đề chính mà cụ Phan nêu ra trong hai bài diễn thuyết tại Sài Gòn năm 1925, khi cụ về tới Sài Gòn: “Đạo đức và luân lý Đông Tây” và “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”.

Trong những công trình biên soạn thời gian 14 năm tại Pháp và thời gian về tại Sài Gòn, cụ Phan đã lần lượt đưa ra những nét lớn về quan niệm đầy đủ của mình về công cuộc duy tân đất nước toàn diện và triệt để. Công cuộc ấy vẫn thuỷ chung như nhất với chủ trương ban đầu từ những năm xưa, khi vừa dấy khởi phong trào duy tân: “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Thật vậy, nếu trong những năm đầu khi mới phát động duy tân ở quê nhà, cụ Phan chỉ mới kịp đưa ra những tuyên cáo cùng quốc dân về những tệ trạng của đất nước trong chế độ bảo hộ thuộc địa Pháp, và hô hào duy tân cải cách để phế bỏ nguyên do đầu tiên và cuối cùng của tệ trạng ấy (là văn hoá ngu dân nấp dưới vỏ Nho học suy đồi, chế độ quan trường hủ lậu), thì trong thời gian 14 năm tại Pháp, cụ Phan đã có nhiều dịp khai triển rõ thêm những quan niệm chủ trương lớn, làm nên một cương lĩnh chính trị mà cụ theo đuổi cho đến cuối đời. Bàng bạc trong một loạt các công trình biên soạn trong thời gian này, gồm có “Tỉnh quốc hồn ca” (bài 2), Yêu sách 8 điểm gửi hội nghị Versailles, “Thư thất điều”, “Pháp Việt liên hợp hậu chi Tân Việt Nam”, “Đông dương chính trị luận”, “Đạo đức và luân lý Đông Tây” và “Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa”, có thể nói cụ Phan đã đề ra những chủ trương lớn cho một khung chính trị tương lai cho một nước Việt Nam thời duy tân. Trong một nỗ lực nhận diện bước đầu, một nhà hoạt động dân quyền thời hiện đại đã nêu lên những nét chính của cương lĩnh chính trị duy tân này (4). Đáng chú ý là những nét lớn về một cương lĩnh chính trị như kể trên, đặt vào thời điểm những thập niên đầu thế kỉ XX, khi mà cả nước đang chìm đắm trong màn đêm phong kiến & thuộc địa, có thể nhận ra tính chất cách mạng của chủ trương chính trị duy tân do cụ Phan đề ra. Rồi đây, khi cụ Phan qua đời, những trí thức trẻ về sau như Nguyễn An Ninh và Phan Khôi... tiếp tục cổ vũ trên các diễn đàn báo chí trong Nam do các vị này bỉnh bút.

Đám tang Phan Châu trinh tại Saigon (1925)


Chúng ta cũng lại biết rằng, bánh xe lịch sử đã ngăn trở việc thực hiện rốt ráo những chủ trương chính trị duy tân. Khi đất nước giành lại được độc lập từ tay Pháp, năm 1945, nhà nước dân chủ cộng hoà đã thiết lập một chế độ chính trị khác với giấc mơ duy tân Việt Nam mà cụ Phan và các bạn đồng chí đề ra từ những năm đầu thế kỉ.

Theo quan điểm của nhà nước dân chủ nhân dân tại miền Bắc trong giai đoạn 1945 trở về sau, quan điểm duy tân của cụ Phan và các nhà nho cấp tiến đầu thế kỉ XX bị xem là chủ trương chính trị ảo tưởng (vì muốn đòi được tự trị trong tay thực dân Pháp), cải lương nửa vời theo chủ nghĩa dân chủ tư sản dân quyền Pháp trong khi thời đại đã tiến qua kỉ nguyên dân chủ vô sản (3). Tại miền Nam, trong thời kì chia cắt 1954-1975 cũng có những nhà phê bình cho rằng chủ trương chính trị của cụ Phan là không tưởng (2).

Tuy nhiên, lí luận dù được mệnh danh là khoa học đến đâu thì cũng không qua được thực tiễn cuộc sống. Kể từ khi phong trào duy tân dấy khởi đến nay đã hơm 100 năm, đất nước chúng ta đã trải qua bao nhiêu biến chuyển. Các chế độ cộng hoà nối tiếp nhau trên đất nước ta từ 1945 đến nay không những đã không tạo lập được những chế độ xã hội theo ước nguyện của thế hệ những nhà nho duy tân, mà ngược lại, có thể nói không ngoa rằng cho đến ngày nay, đất nước chúng ta vẫn nguyên vẹn là một xã hội chìm đắm trong đêm trước của một cuộc duy tân đúng nghĩa.  

Nói như nhà văn Nguyên Ngọc khi dẫn lại một nhận định của một nhà sử học Pháp, những nan đề xã hội Việt Nam vẫn như còn nguyên vẹn sau hơn trăm năm nay (5). Có thể thay nhóm từ nói về chế độ quân chủ hủ bại và chế độ thực dân thuộc địa Pháp trong các tác phẩm của cụ Phan bằng các từ ngữ liên quan đến xã hội hiện tại, chúng ta có thể vẫn nhận ra những nét tương đồng khá lớn của xã hội Việt Nam cách nhau hàng trăm năm. Vẫn là xã hội nhiều tệ nạn, giới cầm quyền ham mê quyền chức mà không vì dân vì nước, vẫn là một nền giáo dục giáo điều, nhồi nhét xa rời thực tiễn...

Sau những năm tháng dài sống trong chế độ toàn trị, ngày hôm nay, thế hệ thanh niên sinh viên Việt Nam đã và đang trui rèn để vượt qua nỗi sợ mà giúp nhau chấn dân khí trong thời đại mới. Nhưng như thế vẫn chưa nói đủ bức tranh duy tân của thời đại hôm nay, nếu chúng ta dừng lại ở đấy. Không, cụ Phan đã một đời dấn thân hoạt động nhiều mặt, từ viết sách, diễn thuyết, vận động chính trị, xây dựng tổ chức hoạt động chính trị duy tân bất bạo động. Chính cụ đã không ngần ngại tự nhận mình là một “nhà hoạt động chính trị ở vương quốc An Nam”. Cuộc vận động chính trị duy tân ngày hôm nay đang diễn ra dưới dạng thức cập nhật của thời đại. Cũng vẫn là chủ trương khai dân trí và chấn dân khí, các nhóm bạn blogger, những hội quần chúng tại khắp nơi nơi đang xây đắp nền móng cho hoạt động xã hội dân sự. Thế hệ hôm nay đang học tập để vận dụng những sách lược đấu tranh đa dạng mà thế hệ cụ Phan đã từng vận dụng, để thích ứng với hoàn cảnh đất nước hiện tại. Nhà nước toàn trị hiện nay cũng như chính phủ bảo hộ trăm năm trước, ra sức trấn áp hoạt động xã hội dân sự, cũng vì họ rất lo ngại tầm ảnh hưởng của những “diễn biến hoà bình” theo tinh thần duy tân mà cụ Phan đề xướng từ trăm năm trước.

Xem vậy thì những gì cụ Phan ấp ủ trăm năm trước đến nay vẫn còn tính cách rất mới, rất bức thiết, đòi hỏi quốc dân phải suy ngẫm lại để tiếp tục con đường duy tân ngõ hầu đưa đất nước đi đến phồn vinh và văn minh thật sự. Ngày nay, trên khắp vùng đất nước cũng như tại hải ngoại, phương tiện truyền thông hiện đại đang góp phần của nó trong việc phát huy chủ trương khai dân trí và chấn dân khí, giúp cho thế hệ trẻ tuổi nắm bắt đúng mạch đập của thời đại để nhận ra những gì cụ Phan và thế hệ duy tân đầu tiên đưa ra đến nay vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự của nó. Đây chính là những dấu hiệu đáng mừng cho công cuộc duy tân dở dang mà cụ Phan còn để lại cho thế hệ chúng ta.

                                                                                              Đoàn Xuân Kiên



(1)  Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục. Nxb. Lá Bối, 1967; Nguyễn Văn Xuân,  Phong        trào duy tân. Nxb. Lá Bối, 1971
(2)   Xem: Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004; Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (Q. 5, tập Trung). Tác giả tự xuất bản, 1963.
(3)   Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975, trang 120.
(4)   Xem: Mai Thái Lĩnh, “Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh”, Talawas, 02/11/2010
(5)  Nguyên Ngọc, Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương trình vĩ đại bị dở dang của Phan Châu Trinh”, Diễn Đàn, 22/03/2011.

  Nguyễn Huy Lượng bình văn Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du Đoàn Xuân Kiên     Suốt thời trai tráng, Nguyễn Huy Lượng gắn ...