Bổ sung và đính
chính vài chi tiết
về tiểu sử Nguyễn
Huy Lượng
Nguyễn Huy Lượng 阮輝諒 (1749-1807) là tác giả của bài phú Tây Hồ Tụng ,
làm ra trong dịp tế đàn ở Thăng Long, mùa hạ 1801. Tương truyền lúc bài phú mới
lưu hành, người người đua nhau sao chép, khiến giá giấy tăng vọt… Bài “phú ông
Lượng” –như được gọi thân mật như vậy một thời- đã gắn tên tuổi ông với Tây Hồ,
với Thăng Long. Hình ảnh đó vẫn gắn bó với Thăng Long, rồi Bắc Thành, rồi Hà Nội
về sau này. Ngày nay, ông nghiễm nhiên là một “danh sĩ” đất Thăng Long, như nhiều
sách vở về đất và người Thăng Long từng ghi nhận. Điển hình là những ghi chép của
Nguyễn Vinh Phúc trong bài “Nguyễn Huy Lượng” in trong sách Hà Nội: Cõi Đất – Con Người (nxb Thế Giới,
Hà Nội, 2005, tr. 295-317). Sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2009, trong
đó bài viết về Nguyễn Huy Lượng vẫn không thêm gì mới, ngoài những điều soạn giả
đã viết từ trước. Cũng đáng ngậm ngùi là chỉ sau một trăm năm, hình ảnh Nguyễn
Huy Lượng trong lòng người đời sau chỉ còn mờ ảo như một người lạ mặt.
Cho
đến đầu thế kỉ này, sau hơn trăm năm tìm tõi, những gì chúng ta biết về Nguyễn
Huy Lượng có thể tóm tắt trong mấy điểm sau đây: (a) năm sinh năm mất chưa rõ
hoặc chỉ là phỏng đoán không rõ ràng; (b) quê quán ông là làng Phú Thị, nhưng
gia đình ông lại thiên cư lâu dài, từ Thăng Long qua huyện Chương Mỹ (Hà Đông);
(c) ông đỗ Hương Cống đời Lê Trịnh; (d) trước ông làm chức quan nhỏ trong triều
Lê Trịnh, sau làm quan triều Tây Sơn tới chức Hữu Tham Tri bộ Hộ, tước Chương
Lĩnh Hầu; (e) ông được triệu làm Tri phủ Xuân Trường (Trấn Sơn Nam Hạ) và chết
mấy năm sau đó, có lẽ 1808; (g) Thơ văn ông hiện chỉ còn bài phú Tây Hồ, tập Cung Oán Thi. Có thuyết còn cho bài Trận
Vong Tướng Sĩ Văn tương truyền là của tổng trấn Nguyễn Văn Thành là của ông.
Ngoài ra những thơ văn khác còn trong nghi vấn hoặc chưa tìm thấy đích xác văn
bản còn lưu lại… Những thông tin như trên chưa phải là nhiều và xác đáng dành
cho một “danh sĩ” như ông. Đã thế, có thể nói, cho đến tận bây giờ, 2025, sách
nghiên cứu và sách giáo khoa, các bài viết đăng báo… vẫn nhắc đi nhắc lại những
thông tin mơ hồ, hoặc sai lạc về Nguyễn Huy Lượng.
Lúc sinh tiền, Nguyễn Huy Lượng được xem là một khuôn
mặt văn học khá nổi tiếng, được giới nho sĩ văn gia xem như một đại biểu của
“phái” Phú Thị - là một khuynh hướng văn chương trong số mười hai “phái” của thời
Lê Mạt (nửa sau thế kỉ XVIII). Có lẽ Lê Dư là người đầu tiên ghi nhận chỗ đứng
của nhà nho văn gia này khi đăng tải bài báo trên Nam Phong (1). Trong bài báo này Lê Dư ghi nhận mười hai khuynh hướng
văn học đương thời Lê Mạt như sau:
-
Phái Liễu Ngạn là phái Nguyễn Gia Thiều
-
Phái Mộ Trạch là phái Vũ Duy Đoán
-
Phái Tiên Điền là phái Nguyễn Du
-
Phái Thụy Khuê là phái Phan Huy Ích
-
Phái Cổ Đô là phái Nguyễn Bá Lân
-
Phái Thanh Nê là phái Trương Đăng Quỹ
-
Phái Lai Thạch là phái Nguyễn Huy Tự
-
Phái Phú Thị là phái Nguyễn Huy Lượng
-
Phái Cổ Liêu là phái Phạm Công Trứ
-
Phái Cổ Am là phái Nguyễn Bỉnh Khiêm
-
Phái chúa Nguyễn
-
Phái chúa Trịnh.
Sự chia nhóm, phái như thế chưa phải là thỏa đáng vì chỉ
dựa trên địa bàn khu vực lớn nhỏ không đều nhau, qua những thời đoạn khác nhau.
Vả chăng, khi nói đến “phái”, người xưa chỉ đơn giản xem một số nhà văn có cùng
khuynh hướng làm văn, hay đơn giản hơn, một nhóm nhà văn đồng hương, thậm chí
chỉ trong một dòng họ mà thôi. Tuy vậy, có thể thấy là tác giả bài báo, được tiếng
là đọc nhiều sách vở Hán Nôm xưa, nên có lẽ cũng theo bước các nhà nho xưa mà
ghi nhận Nguyễn Huy Lượng có một chỗ đứng nhất định trong khung cảnh sinh hoạt
văn học giai đoạn Lê Mạt (nửa sau thế kỉ XVIII). Hẳn là những ghi nhận như trên
phải xuất phát từ thực tế đầy biến động của lịch sử, và nhiều nhân vật đã một
thời sôi nổi trong cơn lốc xoáy của lịch sử đã không còn được nhận diện rõ ràng
về sau này. Điều đáng ngạc nhiên đối với hậu thế là chỉ hơn trăm
năm sau khi Nguyễn Huy Lượng qua đời, sách vở viết về ông thật mơ hồ, như thể
ông là một người xa lạ của sinh hoạt văn học giai đoạn Lê Mạt (nửa sau thế kỉ
XVIII).
Hành trình dài tìm lại chân dung “danh sĩ” Nguyễn Huy Lượng
Lần theo kho sách cũ còn lưu lại trong thư viện Viễn
Đông Bác Cổ Hà Nội, từ những năm đầu thế kỉ XX đã có một số văn bản sao chép
thơ văn nôm xưa. Chẳng hạn, “Trận Vong Tướng Sĩ Văn” (AB. 297, 383) ghi rằng:
“Gia Long nguyên niên, của ông Vũ Lượng (!) làm, ông Nguyễn Văn Thành chủ tế”, bài
phú “Tây Hồ Tụng” được chép trong Tây Hồ
Phú (AB. 299) và Phong Cảnh Biệt Chí
(AB.377), tập Cung Oán Thi ghi là của
Bạch Liên Am Nguyễn, được chép trong tập văn nôm có mã số AB 549, và chép rải
rác trong Quốc Âm Thi Ca Tạp Lục (AB.
296)… Kho văn nôm cũ kia chỉ được phiên chuyển sang chữ quốc ngữ khá muộn, khởi
đầu từ tạp chí Nam Phong. Năm 1924, tạp
chí Nam Phong số 85 (th 7.1924) cho
đăng lần đầu bài Phú Tây Hồ nhưng thiếu hẳn một đoạn dài. Vài năm sau, một vị độc
giả gửi về bài phú chép đầy đủ, nhưng nhà bỉnh bút Nam Phong chỉ có thể giới thiệu sơ sài trong một lời chú ngắn ngủi về
tác giả bài Tụng Tây Hồ: “… Truyền rằng bài này của ông Trương lĩnh hầu hữu hộ
Lượng làm ra từ đời Lê mạt.” (2)
Mười lăm năm sau, Dương Quảng Hàm (1942) cũng không
cho độc giả biết thêm gì về nhà văn này, ngoài vỏn vẹn hai dòng tiểu sử: “Nguyễn
Huy Lượng: trước làm quan với nhà Lê, sau làm quan với Tây sơn, được phong tước
Chương lĩnh hầu.” (3) trong khi đó soạn giả đã ghi khá chi tiết tiểu sử Phạm
Thái, trong 13 dòng chú thích ở cùng trang.(tr 319). Cũng năm này, Ứng Hòe Nguyễn
Văn Tố (1942), trong bài “Tài liệu để đính chính tài liệu văn cổ”, cho biết
thêm một chi tiết liên quan đến tiểu sử Nguyễn Huy Lượng: năm 1801, ông làm Phụng
Nghị Bộ Lễ, và soạn bài Phú Tây Hồ. (4). Được tiếng là vị học giả cẩn trọng, cụ
Tố cũng bị nhầm lẫn chức vụ của ông Hữu tham tri bộ Hộ đời Tây Sơn với chức
quan nhỏ ở Bộ Lễ thời Lê-Trịnh.
Tám năm sau đó, Hoàng Thúc Trâm, trong sách Quốc Văn Đời Tây Sơn (nxb. Vĩnh Bảo,
1950), cũng không cho biết thêm gì về tiểu sử Nguyễn Huy Lượng, ngoài những
thông tin dẫn lại từ Dương Quảng Hàm trước kia: “Nguyễn Huy Lượng: tức Hữu hộ Lượng,trước làm quan với triều Lê,
sau theo Tây Sơn, được phong tước Chương Lĩnh Hầu.” (5). Tuy vậy, đáng lưu ý là
chính Hoa Bằng cũng đã cho ta biết từ năm 1950, rằng Nguyễn Huy Lượng còn là
tác giả Cung Oán Thi để tả cái hận
“dê ngấy lá dâu” ở nơi cung cấm. Không thấy soạn giả dẫn nguồn tài liệu nào cho
điều khẳng định này. (6)
Trong sách Chinh
Phụ Ngâm Bị Khảo (1953), Hoàng Xuân Hãn cho chúng ta nhiều thông tin mới về
Nguyễn Huy Lượng khi ông sao lục được một bản phỏng dịch Chinh Phụ Ngâm không đề
tác giả, chỉ biết là của “... một người họ Nguyễn, hiệu là Bạch Liên Am, quán
làng Trung Nghĩa, huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc (tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Tác giả
sống vào khoảng cuối Lê, đầu Nguyễn, và có để lại một tập thơ đề là Cung Oán Thi, hình như cũng phỏng theo
văn cũ.” (7).
Không lâu sau đó, Phạm Văn Diêu cũng cho ta thêm nhiều
thông tin về Nguyễn Huy Lượng trong tác phẩm Văn Học Việt Nam (nxb Tân Việt,1960): “Nguyễn Huy Lượng: tức Hữu hộ
Lượng, trước làm quan với triều Lê, sau ra thờ nhà Tây Sơn, được phong tước
Chương Lĩnh Hầu. Nguyễn Huy Lượng là tác giả
các tác phẩm nôm như sau: Bình tây
khúc, Cung oán thi, Hồi loan khúc, Ngự đạo hành cung nhật trình. Tây hồ tụng.
(Chú thích 1: Theo Hoàng Xuân Hãn thì Nguyễn Huy Lượng còn là tác giả bài Văn tế trận vong tướng sĩ danh tiếng xưa
nay vẫn truyền tụng là của Tiền quân Nguyễn Văn Thành. (Lê Thành Khôi, Le Vietnam. Histoire et Civilisation.
Tome I: Le milieu et l’Histoire.Edition de Minuit, Paris, 1955, tr. 348, cước
chú số 42 bis). (8).
Cũng thời gian này, tại Hà Nội, nhóm Trần Văn Giáp
& Nguyễn Tường Phượng, trong Lược
truyện các tác gia Việt Nam, tập I (nxb. Sử Học, 1962) do Trần Văn Giáp chủ
biên, sau khi nhắc lại quê quán của Nguyễn Huy Lượng là “làng Phú Thị, huyện
Gia Lâm” lần đầu tiên cho ta biết thêm một chi tiết: “... sau di cư sang làng
Lương Xá, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây”, và cũng ghi Cung Oán Thi là tác phẩm của Nguyễn Huy Lượng. (9)
Như thế là cho đến 1962, chúng ta chỉ được biết rất sơ
sài về hành trạng và văn nghiệp của Nguyễn Huy Lượng. Ngoài Phạm Văn Diêu liệt
kê một bảng dài các thơ văn của Nguyễn Huy Lượng, các nhà nghiên cứu Hoàng Thúc
Trâm, Hoàng Xuân Hãn và Trần Văn Giáp đều nhắc đến tập Cung Oán Thi như một tác phẩm của ông dưới bút danh là Bạch Liên Am
Nguyễn hay Nguyễn Huy Lượng.
Từ đó về sau, cho đến những năm gần đây, các tác giả
biên soạn sách vở về Nguyễn Huy Lượng như Nguyễn Hữu Sơn (10) và Bùi Hạnh Cẩn (11)
cũng không cung cấp thêm gì nhiều về hành trạng và văn nghiệp Nguyễn Huy Lượng,
ngoài những thông tin ít ỏi đã có từ trước.
Trong số những soạn giả sách giáo khoa có viết nhiều về
Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Lộc đã biên soạn tài liệu giảng dạy văn học sử trong
nhà trường đại học, và đã thực hiện sách Văn
Học Tây Sơn (1986). Nếu trong Văn Học
Tây Sơn, Nguyễn Lộc chỉ lặp lại theo những tài liệu trước kia, cho là
“không rõ năm sinh năm mất” (12) thì trong Từ
Điển Văn Học (bộ mới), ông đã ghi theo những phỏng đoán của một số nhà
nghiên cứu trước đây, rằng “Nguyễn Huy Lượng (?-1808)… chưa rõ năm sinh…). Khi
viết mục “Nguyễn Huy Lượng” cho Từ Điển
Văn Học (bộ mới) (Nxb. Thế Giới, 2004) cho công chúng một bản tiểu sử có
nhiều chi tiết đúng như trước nay vẫn biết, nhưng cũng nhiều thông tin không
xác thực. Chúng ta biết được gì từ bản tiểu sử này? Mở đầu bản tiểu sử, Nguyễn
Lộc cho biết: “Chưa rõ năm sinh”. Về quê quán thì tác giả cho ta biết: “Nguyên
quán làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, sau dời sang
làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ,nay thuộc tỉnh Hà Tây, (mà nhóm biên soạn Lược Truyện (1962) đã cho biết). Nguyễn
Lộc cũng cho biết thêm: “Các đời trước từng có người đậu Tiến sĩ, làm quan.
Nhưng ông thân sinh Nguyễn Huy Lượng thì không đỗ đạt gì, ở nhà chuyên làm ruộng.”
(tr. 1148). Nguyễn Huy Lượng thi đậu Hương cống, tức cử nhân. Dưới thời Lê Trịnh,
ông được bổ làm Phụng nghi, một chức quan nhỏ ở Bộ Lễ. Sau khi vua Quang
Trung (1753-1792) ra Bắc đại phá quân
Thanh, ông ra cộng tác với nhà Tây Sơn, giữ chức Hữu Thị Lang Bộ Hộ (nên mới gọi
là Hữu Hộ Lượng). Năm 1802, triều Tây
Sơn sụp đổ, triều Nguyễn lên thay, Nguyễn Huy Lượng bị bắt trong khi quân Tây
Sơn rút khỏi Bắc thành chạy lên phía Bắc. Nguyễn Huy Lượng buộc phải nhận chức
Tri phủ Xuân Trường của nhà Nguyễn.” (tr. 1148) Về chung cục của Nguyễn Huy Lượng,
soạn giả cho biết: “Theo tác giả Minh đô
sử, hình như ông bị giết chết trong một trường hợp nào đó năm 1808.” (tr.
1148). Về văn nghiệp của Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Lộc chỉ nhắc lại một số những
thông tin đã được người trước công bố. Ông chỉ cho biết thêm rằng: “Bài Lượng như long phú (phú Lượng như rồng)
của ông cũng viết trong thời gian này. Ngoài ra ông còn là tác giả của tập Cung Oán Thi (Thơ về nỗi oán hận của người cung nữ, có tài
liệu nói đây là tác phẩm của Vũ Trinh, hoặc Nguyễn Hữu Chỉnh)... (tr 1148).
Cũng trong bản tiểu sử này, Nguyễn Lộc cho biết thêm là “Tất cả sáng tác của
Nguyễn Huy Lượng đều viết bằng chữ Nôm. Cung
Oán Thi là tập thơ gồm 100 bài thất ngôn bát cú (AB 549) gần đây mới được
Bùi Hạnh Cẩn xác định chắc chắn là của ông... (tr 1149).(13).
Đoạn văn trên có một số điểm cần bàn thêm: (a) ông
thân sinh Nguyễn Huy Lượng không đỗ đạt gì, ở nhà chuyên làm ruộng. Điều này có
lẽ không đúng. Một tài liệu cũ có nhắc tới Nguyễn Huy Bá có thái độ không ưa
ông nên viết với giọng chê bai, như Hoàng
Lê Nhất Thống Chí (14), nhưng cũng cho biết là Huy Bá đương có chức phận ở
trong triều, có nghĩa là không “ở nhà chuyên làm ruộng” rồi! (b) Nguyễn Huy Lượng
bị buộc phải nhận chức Tri phủ Xuân Trường: không có tài liệu xác đáng nào nói
thế. Thực tế Bắc Thành (Thăng Long cũ) có vẻ phức tạp và phong phú hơn nhiều: từ nhà vua mới
(Gia Long) đến các trọng thần như Nguyễn Văn Thành đã có những động thái cầu hiền
như được ghi trong Đại Nam Thực Lục Chính
Biền, Đệ Nhất Kỉ. (c) Nguyễn Huy Lượng chết mờ ám năm 1808: soạn giả dẫn
theo tài liệu Minh Đô Sử của Lê Trọng
Hàm, là bộ sách viết hơn 70 năm sau khi Nguyễn Huy Lượng mất, nên có nhiều việc
trong sách này chỉ là qua những nguồn tin không còn chính xác. (d) Văn chương của
Nguyễn Huy Lượng chỉ toàn văn Nôm: Điều khẳng định này có lẽ còn quá sớm. Thư
viện Viện Hán Nôm có một bản thơ chữ Hán có tên Hy Minh Thi Tập (A 2092). Mặc dù văn bản chưa được giám định để có
kết luận về tính chân nguy của nó, nhưng chúng ta có thể tin được rằng bút hiệu
Hy Minh là một trong những bút danh của ông, như đã được xác nhận ở bài tưa một
bản sách của người bạn ông, Tiến sĩ Trần Bá Lãm (15).
Đến thời gian ấn hành Từ Điển Văn Học (2004), bài phú Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng đã được
phổ biến rộng khắp và lâu năm rồi, các nhà giáo và các nhà nghiên cứu hầu như
đã nghiền ngẫm rất kĩ bài văn biền ngẫu dài này qua năm này tháng nọ. Chỉ có điều
là phần đông dường như không chú ý đến câu văn ở gần cuối bài mà tác giả đã bộc
bạch về tuổi tác của mình: “Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du.”, nghĩa là năm 1801, khi ông làm
bài Tây Hồ Tụng, tuổi ông đã ngoài 50! Nếu chú ý đúng mức
thì các nhà bình giảng đã có thể ức đoán năm sinh của Nguyễn Huy Lượng là khoảng 1750 hoặc sớm hơn, căn cứ từ
chính lời ông viết. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc tuy cũng có để ý đến câu văn đó, lại lấy
đúng năm 1750 làm năm sinh, bỏ quên lời tác giả là ông nói đã ngoài 50! Thảng hoặc có người lại phỏng
đoán sai lạc khi chọn năm 1759 (?) là năm sinh Nguyễn Huy Lượng, không biết vô tình
hay dựa trên một nguồn tư liệu nào? (16).
Về năm mất cũng có tình hình tương tự, hầu hết đều ghi năm ông qua đời là
1808, dựa theo lời truyền tụng của người đời sau, như theo sách Minh Đô Sử của Lê Trọng Hàm chẳng hạn.
Bổ sung một số thông tin liên quan đến tiểu sử Nguyễn Huy Lượng
Từ sau Từ Điển
Văn Học (bộ mới), học giới đã có thêm nhiều thông tin giúp bổ sung vào bản
hành trạng và sự nghiệp văn học của ông.
1. Về năm sinh của
Nguyễn Huy Lượng: Nay ta có một bút chứng khá chắc chắn ghi chép trong bản
gia phả Nguyễn Gia Phả Ký (Siêu Loại
– Bắc Ninh), là gia phả bên ngoại, trong đó có đoạn ghi như sau về người con
gái út của Siêu
Quận công Nguyễn Gia Châu, tức là thân mẫu của Nguyễn Huy Lượng:
“23g. Con gái út: húy Thị Tuệ, gả cho quan
Đông các Đại học sĩ Nguyễn Huy Bá người Phú Thị huyện Gia Lâm, sinh được 4 người
con trai và 2 người con gái (con trai cả húy Huy Lượng, đăng Hương tuyển khoa
Tân Mão, sinh được 3 người con trai và 2 người con gái: con trai cả húy Huy
Hanh, con trai thứ hai húy Huy Dự, con trai thứ ba húy Huy Đỉnh, con gái húy Lệ
Hoa, con gái thứ húy Diễm Hoa; con trai thứ hai húy Huy Lãng, sinh được 2 người
con trai: con trai cả húy Huy Phàn, con trai thứ húy Huy Mưu; con trai thứ ba
húy Huy Đễ; con trai út húy Huy Hành; con gái lớn húy Thị Nhu; con gái thứ húy
Thị Miên)." (17)
Qua mấy giòng ngắn ngủi ghi trong gia phả này, chúng ta
biết cha Nguyễn Huy Lượng là quan Đông các đại học cưới con gái út của Siêu quận
công Nguyễn Gia Châu là bà Nguyễn Thị Tuệ, sinh được bốn người con trai và hai
người con gái. Nguyễn Huy Lượng là con trai trưởng, đỗ Hương khoa năm Tân Mão,
niên hiệu Cảnh Hưng 32 (1771). Nguyễn Huy Lượng có ba người
con trai và hai người con gái.
Ở một đoạn khác, gia phả cho ta biết năm sinh của Nguyễn
Huy Lượng: “A3'.
Giáp Tam Nữ*5* A3'.a. Chi Giáp thuộc Giáp Tam Nữ: Huy Lượng (Kỉ Tị) sinh ra: Huy Hanh, Huy Dự, Huy Đỉnh,
Thị Lệ Hoa, Thị Diễm Hoa…" (18). Đoạn ngắn trên cho biết một thông tin chính xác
về năm sinh của Nguyễn Huy Lượng: năm Kỉ Tị (1749), và đầy đủ tên họ những người con và cháu của bà con gái út Siêu quận công
Nguyễn Gia Châu, ghi hai lần trong gia phả, không có sai chạy chi tiết.
Trong khi chờ đợi đối chiếu với gia phả dòng họ Nguyễn
Huy ở Phú Thị, những ghi chép trong gia phả họ Nguyễn Gia ở Siêu Loại có thể
tin được là không sai chệch lắm nếu không nói là đáng tin, vì những đoạn ghi về
thế hệ 23 nhà Nguyễn Gia là từ một người con của Nguyễn Gia Thiều chấp bút năm
1803, khi người chú họ của ông là Nguyễn Huy Lượng còn tại thế.
2.Trước nay
sách vở chỉ ghi chung chung là Nguyễn Huy Lượng đỗ Hương Cống trong thời Lê Trịnh.
Quả thật, nếu có truy lục trong những bộ Đăng Khoa Lục cũ hay cả bộ Khoa Cử Việt Nam: Hương Cống Triều Lê
(nxb. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2019), cũng không tìm thấy thông tin về Nguyễn
Huy Lượng đỗ Hương Cống khoa Hương thí nào. May thay, Gia Phả họ Nguyễn Gia
cung cấp cho ta thông tin quý giá ấy: Nguyễn Huy Lượng “đăng Hương tuyển khoa Tân Mão (1771)”, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32.(17)
3. Về năm mất của Nguyễn Huy Lượng: Hiện
nay, chúng ta có một chứng khá rõ. Đại
Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất Kỷ, Quyển XXXIII có đoạn ghi như sau:
“Tháng 11: Ở Sơn Nam Hạ giặc nổi, vây phủ Thiên Trường. Tri phủ Nguyễn Lượng và
Cai Đội Nguyễn Văn Đại đều chết trận… Tặng Nguyễn Lượng làm Hàn Lâm Viện, Nguyễn
Văn Đại làm Cai Cơ, mỗi người được một người con tập ấm.” (19). Đối chiếu với
tây lịch thì ông mất vào Tháng 12 năm 1807, niên hiệu Gia Long thứ 6.
Tóm lại, ngày nay chúng ta đã có thể có những thông tin
xác đáng về Nguyễn Huy Lượng, qua rồi thời mà các nhà nghiên cứu phải phỏng
đoán mơ hồ, nhiều khi sai lạc: Nguyễn Huy Lượng sinh năm Kỉ Tị (1749), đậu
Hương Cống năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771), và qua đời vì chết trận Tháng 12 năm
1807.
Đoàn
Xuân Kiên
Văn Việt, ngày 23/11/2025
(1) Lê Dư, “Nguồn gốc văn học nước nhà và văn học mới”, Nam Phong số 190 (th. 6 1933), tr.
399-408.
(2)“Văn cổ đời Lê”, Nam
Phong số 113 (th 1. 1927, tr. 50).
(3) Dương Quảng Hàm, Việt
Nam Văn Học Sử Yếu. Bản in kì 10. Bộ Giáo Dục, Sài Gòn, 1968, tr. 319.
(4) Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, “Tài liệu để đính chính tài liệu
văn cổ”, Tri Tân, số 51 (17/6/1942),
tr.10.
(5) Hoàng Thúc Trâm, Quốc
Văn Đời Tây Sơn. Nxb. Vĩnh Bảo, Sài Gòn,1950, tr. 115.
(6) Hoàng Thúc Trâm, Sđd, tr. 118.
(7) Hoàng Xuân
Hãn, Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo. Nxb.
Minh Tân, Paris, tr. 29.
(8) Phạm Văn Diêu,
Văn Học Việt Nam. Nxb. Tân Việt,
1960, tr.659-660.
(9) Trần Văn Giáp chủ biên, Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I. Nxb. Sử Học, 1962, mục
374, tr 347-348.
(10) Nguyễn Hữu Sơn, Cung
Oán Thi. Nxb. Văn Hóa Thông Tin, 1994, tr. 11-12.
(11) Bùi Hạnh Cẩn,
Tổng tập thơ phú nôm của Nguyễn Huy Lượng.
Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 1996.
(12) Nguyễn Lộc, Văn
Học Tây Sơn. Nxb. Sở Văn Hóa-Thông Tin Nghĩa Bình, 1986, tr. 352.
(13) Nguyễn Lộc, mục từ “Nguyễn Huy Lượng”, Tự Điển Văn Học (bộ mới). Nxb. Thế Giới,
2004, tr.1149.
(14) Đoạn ghi trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Hồi 1): “Hồi đó,
có Nguyễn Huy Bá người ở Gia Lâm
(làng Phú Thị, huyện Gia Lâm) tính tình nham hiểm, giảo hoạt, thường vẫn quen
thói tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Năm trước, chính vì Bá đã tố cáo âm mưu
nổi loạn của Nguyễn Huy Cơ và Thuỵ quận công mà y được làm chức tham nghị ở trấn Sơn Nam, dần dà, y ngoi
lên chức tiến triều, rồi lại thăng tới chức đốc
đồng ở trấn Thái Nguyên. Lúc này vì có lỗi bị cách chức, y đang nóng lòng
mong lại được ra làm quan.” (Bản dịch của Nguyễn Đức Vân & Kiều Thu Hoạch.
Nbx. Văn Hoc, 1987, tr. 20-21.)
(15) Việt Anh, “Hy Minh với Nguyễn Huy
Lượng có quan hệ như thế nào?”. Thông
báo Hán Nôm học 2001, tr.27-31.
(16) Việt Anh, bài đã dẫn, tr. 27.
(17) Chương Trình Nghiên Cứu Gia Phả Việt Nam, Nguyễn Gia Phả Ký – Liễu Ngạn- Bắc Ninh. Bản dịch của Nguyễn Văn Nguyên. Nxb. Thế Giới,
2004, tr. 173.
(18) Nguyễn Gia Phả
Ký, Sđd, tr. 203.
(19) Quốc Triều Sử Quán, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất Kỷ, Quyển XXXIII bản dịch của
Viện Sử Học, nxb. Giáo Dục, 2002, tr. 712

No comments:
Post a Comment