XEM LẠI MỘT
VẤN ĐỀ
NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT:
CẤU
TRÚC ÂM TIẾT
Đoàn Xuân Kiên
I
1 Trong sinh
hoạt hằng ngày, chúng ta chỉ nói năng với nhau qua từng câu nói. Mỗi câu nói là
một chuỗi dài ngắn những mẩu âm thanh cắt rời nhau, gọi là tiếng. Câu nói:
Cái bàn này hình bán nguyệt
có sáu tiếng. Mỗi tiếng như thế, đứng trên bình diện
ngữ âm, là một âm tiết. Âm tiết là
một cấu trúc cơ bản của một câu nói về mặt phát âm. Âm tiết là một khái niệm
thuộc ngữ âm học phương tây để chỉ một đơn vị lời nói được phát ra. Trước kia,
chúng ta chỉ gọi đơn vị này là một tiếng.
Một
"tiếng" trong tiếng Việt được nói lên là một đơn vị ngữ âm, và cũng
là một đơn vị ngữ pháp. Một "tiếng" là một đơn vị phát ngôn, và là
một đơn vị cuả lời nói để tạo ra những kết cấu lời nói trong hoạt động nói năng
giao tiếp. Đặc tính này cuả tiếng chính
là một tính cách loại hình cuả tiếng Việt, trong đó mỗi đơn vị phát âm trùng
khít với đơn vị ngữ pháp (hình vị, và
từ). Khi xét trên bình diện ngữ âm, tiếng là một đơn vị cuả ngữ âm, tức là
một âm tiết. Câu tiếng Việt sau đây là một tập hợp 6 âm tiết: "trèo lên cây bưởi hái hoa", và là
sáu từ, mỗi từ là một hình vị -nếu nhìn
từ cấp độ ngữ pháp.
Tính cách
này cuả tiếng cuả tiếng Việt sẽ không
tìm thấy trong ngôn ngữ thuộc loại hình ngôn ngữ biến hình cuả Ấn-Âu, trong đó
ba cấp độ đơn vị kể trên hoàn toàn không trùng nhau. Câu nói " I climbed the grapefruit tree picking some
of its flowers " có 10 từ nhưng
13 âm tiết và 15 hình vị. Ba cấp đơn vị này được xem xét ở ba cấp độ ngôn ngữ
khác nhau. Âm tiết / klaimd / có hai
hình vị, và phải căn cứ vào hai hình vị đó mới hiểu đúng ý nghiã cuả từ
'climbed'; do vậy, cấp bậc âm tiết trong ngôn ngữ Ấn-Âu là một cấp độ phân tích
không đầy đủ. Trong các ngôn ngữ như thế, việc phân tích âm vị sẽ có vai trò
khá quan thiết: âm vị / d / ở sau âm tiết vưà kể là một âm vị không thể bỏ qua,
vì nó là cơ sở cuả phân xuất hình vị chỉ thì quá khứ cuả động từ 'trèo' trong
tiếng Anh.
Vai trò
cuả âm tiết trong loại hình ngôn ngữ Ấn-Âu không có ý nghiã âm vị học đặc biệt,
cho nên trong một công trình ngữ âm học về tiếng Anh trước đây, Chomsky và
Halle (1968) đã không hề nhắc nhở gì đến âm tiết cả.
Vai trò
cuả âm tiết trong tiếng Việt có khác với âm tiết trong các ngôn ngữ Ấn-Âu. Mỗi
âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc ổn định, và là cơ sở để phân xuất các thành
phần cấu tạo trực tiếp. Trước khi tiếp xúc với phương tây, việc tìm hiểu
"tiếng" cuả chúng ta theo truyền thống âm vận học Trung Hoa mà phân
xuất một "tiếng" là hai thành phần: khuôn thanh (thanh mẫu) và khuôn vần (vận
mẫu). Ví dụ: tiếng bàn gồm thanh
mẫu là b- và vận mẫu là -àn. Việc chiết xuất một
"tiếng" ra hai thành phần như thế có ý nghiã rất lớn trong giáo dục
từ hàn, vì kiến thức về vận mẫu là cơ sở để gieo vần trong thi (thơ ca) và phú
(văn biền ngẫu).
Các nhà âm
vận học Trung Hoa về sau còn chia khuôn vần thành các nhiếp và tứ thanh. Nhiếp là những vận bộ có âm cuối như
nhau, có âm chính giống hoặc gần giống nhau. Tứ thanh là hệ thống thanh thuộc khuôn vần. Tứ thanh gồm có thanh
"bình" (bằng), "thượng" (lên), "khứ" (đi),
"nhập" (vào). Thanh "nhập" là những thanh đi với các âm
cuối nhập ( tức là các âm /-p,-k, -ch, -t/. Hệ thống tứ thanh lại chia hai bậc
bổng trầm mà các nhà âm vận học Trung Hoa gọi là bậc "thanh" (trong)
và "trọc" (đục). Hệ thống thanh có thể sắp xếp như sau:
Tuy vậy,
việc tìm hiểu âm vận học Trung Hoa thời cổ chưa giải quyết những mỗi quan hệ
bên trong cấu trúc cuả các "tiếng".
Khi bắt
đầu cuộc giao tiếp với phương tây, việc tìm hiểu ngữ âm tiếng Việt tiến sang
một hướng khác. Hệ thống chữ viết theo mẫu tự Latin đã dẫn đến sự kiện là
"chữ quốc ngữ" là một hệ thống chữ viết ghi âm là một thuận lợi, cộng
thêm vào đó là những thuận lợi về những tiến bộ cuả việc nghiên cứu ngữ âm cuả
phương tây.
Các nhà
ngữ âm đã có những cố gắng mô hình hoá các quy tắc chung về hoạt động cuả âm
tiết (Hyman, 1975: 189). Những quy tắc đó có thể được diễn giải khác nhau,
nhưng chúng không ngoài một số tính cách chung sau đây: (a) âm tiết phải có tính
vang; (b) mỗi âm tiết phải có bộ phận hạt nhân gồm ít nhất một nguyên âm; (c)
âm tiết luôn có khuynh hướng tăng khả năng kết hợp cuả âm đầu, và khuynh hướng
hạn chế khả năng kết hợp cuả âm phụ cuối.
Điạ vị cuả
âm tiết trong phân tích âm vị học phương tây đã trải qua nhiều thăng trầm, với
rất nhiều quan điểm khác biệt nhau. Ngoại trừ
một trường hợp duy nhất là Chomsky và Halle (1968) trong đó âm tiết
không hề được nhắc đến một cách minh nhiên, nhìn chung thì các khuynh hướng
khác nhau đều có chú ý đến vai trò cuả âm tiết trong phân tích ngữ âm-âm vị
học.
2 Âm tiết là một cấu trúc, nghiã là một tổng
thể được cấu tạo từ các đơn vị âm thanh, gọi là âm vị. Mỗi ngôn ngữ có thể chọn lưạ trong kho âm vị tự nhiên cuả
ngôn ngữ loài người, để lập riêng cho mình một hệ thống âm vị phù hợp với lối
phát âm của ngôn ngữ mình sử dụng.
Các âm vị
trong tiếng Việt có ba loại: nguyên âm, phụ âm và thanh. Nguyên âm và phụ âm là
những âm vị tuyến tính, nghiã là
những âm vị kết hợp với nhau theo trật tự trước sau trong quá trình phát âm.
Chúng là những âm vị có thể phân tách ra thành từng đơn vị nhỏ hơn, nên còn gọi
là những âm vị đoạn tính. Trái với
loại âm vị trên, thanh là âm vị phi tuyến
tính, vì nó là một âm vị bao trùm toàn bộ âm tiết, và gắn liền với âm tiết
trong suốt quá trình phát âm một âm tiết. Thanh không thể chiết ra khỏi âm tiết
được, mà nhất thiết là nó phải gắn với âm tiết, vì thế nên thanh còn gọi là âm vị siêu đoạn tính.
Tóm lại,
âm tiết , hay "tiếng" cuả tiếng Việt là một đơn vị cuả lời nói nhưng
âm tiết tiếng Việt cũng là một đơn vị ngôn ngữ. Âm tiết là một chỉnh thể ngữ
âm. Âm tiết là cơ sở phân tích cấu trúc kết hợp các âm vị, nhưng chính âm tiết
là một chỉnh thể đơn vị nhỏ nhất cuả phân tích lời nói.
II. Các quan điểm về cấu trúc âm tiết
Cho đến nay,
trong truyền thống phân tích ngữ âm phương tây, có ít nhất là năm quan điểm
khác nhau về cấu trúc nội tại cuả âm tiết. Sau đây là phác hoạ các mô hình cấu
trúc âm tiết:
(a) cấu trúc CV, nghiã là không có thành phần kết cấu theo tầng bậc, mà chỉ có các thành
phần cấu tạo trực tiếp nên âm tiết, tức là các âm vị nguyên âm (V=vowel) và phụ
âm (C=consonant). Điển hình cho quan điểm cấu trúc phẳng là mô hình các cấu
trúc âm tiết gọi là phổ biến cho mọi ngôn ngữ, do Clements & Keyser (1983)
đề nghị trong công trình quan trọng cuả hai ông:
Loại 1: CV
Loại 2: V
Loại 3: CVC
Loại 4: VC
Trong số
các tác giả Việt Nam, có Lê Văn Lý (1948) cũng dùng công thức như vậy khi mô tả
các âm tiết tiếng Việt.
(b) cấu trúc phân nhánh, gồm có ba nhánh với các thành phần cấu tạo liên quan
đến từng nhánh. Theo mô hình này, âm tiết cấu trúc như sau (theo McCarthy,
1979, Vennemann, 1984): phần chính cuả âm tiết là tổ hợp cuả phần âm mở đầu và
phần hạt nhân cuả âm tiết, phần phụ là phần còn lại cuả âm tiết:
Mô hình cấu trúc phân nhánh còn được thể hiện theo chiều ngược lại: trước hết là
phân lập giưã phần đầu cuả âm tiết và phần còn lại cuả nó là phần vần, kế đó là
phân lập giưã hai thành phần cuả vần là phần hạt nhân và phần cuối vần. Đây là
mô hình cấu trúc âm tiết được các nhà âm vận học Trung Hoa áp dụng, chẳng hạn
các học giả đời Tống khi biên soạn bộ Đẳng
Vận Thư. Mô hình này được trình bày trong Chao (1948) và Karlgren (1954),
Pike & Pike (1947), Halle & Vergaud (1978), Selkirk (1982). Dưới đây là
mô hình cuả Pike & Pike (1947):
Mô hình âm
tiết này về sau đã trở thành một công thức quen thuộc trong các sách giáo khoa
ngữ âm-âm vị học, với một vài thay đổi tên gọi. Chẳng hạn, thành phần gọi là
"hạt nhân" trong sơ đồ cấu trúc cuả Pike đã chuyển thành
"vần", và thành phần "cao điểm" nay thường gọi là "hạt
nhân" trong sơ đồ âm tiết được dùng hiện nay.
(c) cấu trúc phân nhánh hình rẽ quạt: mô hình này đưa ra thành phần cấu
thành âm tiết xếp hàng ngang nhau. Mô hình này cũng được nhiều nhà nghiên cứu
áp dụng, như Hockett (1955), Haugen (1956), Davis (1985), Noske (1992), Hall
(1992). Mô hình rẽ quạt thường được trình bày như sau:
(d) cấu trúc "Mora" (là các yếu tố có ý nghiã âm vị học trong âm tiết,
xét từ quan điểm mệnh danh là ngữ âm học cân phương - metrical phonology). Các
nhà ngữ âm học Hyman (1985), McCarthy & Prince (1986), Hayes (1989) đã dùng
mô hình này để phân tích âm tiết cuả các ngôn ngữ có nhiều dấu nhấn (như tiếng
Nhật, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Phần Lan), mà những sơ đồ âm tiết quen thuộc
xưa nay đều không biểu hiện được. Cấu trúc 'mora' sẽ làm nổi lên những yếu tố
mang trọng âm hay kéo dài hơn so với những yếu tố khác. Dưới đây là một thí dụ
về mô hình cấu trúc âm tiết với các 'mora' (Hayes, 1989)



Những mô hình cấu trúc âm tiết trên đây dù có khác
nhau chi tiết, nhưng đều có một điểm chung là: chúng chỉ nhằm mô tả các cách
kết cấu âm vị trong âm tiết, và quan trọng hơn nưã là âm tiết trong những
trường hợp này chỉ là một cấu trúc trung gian giưã các âm vị và các cấu trúc ở
các cấp độ trên âm tiết, là "từ". Một điểm nưã là các mô hình cấu
trúc âm tiết trên đây không có chỗ đứng cho các yếu tố kết hợp bên ngoài yếu tố
liên hợp (chẳng hạn các mối quan hệ tiếp hợp trong âm tiết, hoặc là thanh
điệu). Do vậy, các mô hình cấu trúc âm tiết này chỉ là mô hình cuả một loại
hình ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ đơn tiết, trong đó âm tiết có vai trò
trung tâm cuả phân tích âm vị học.
III. Điểm
lại một số quan điểm về âm tiết tiếng Việt
Tiếng Việt
và các ngôn ngữ thuộc loại hình cách thể, trong đó mỗi âm tiết là một đơn vị
hoàn chỉnh đứng độc lập, và là một đơn vị cuối cùng trong việc phân xuất các
đơn vị cuả lời nói. Một đặc tính quan trọng khác cuả âm tiết tiếng Việt là nó
có thanh điệu -hiểu là một yếu tố có giá trị ngữ âm quan yếu trong việc phân biệt
các âm tiết với nhau. Không thể có âm tiết tiếng Việt hoàn chỉnh mà không có
yếu tố thanh điệu. Thanh là một âm vị phi tuyến tính, nó xuất hiện cộng thời
với các âm vị tuyến tính để làm thành một chỉnh thể là âm tiết tiếng Việt.
Những mô hình cấu trúc âm tiết chỉ ghi lại các âm vị tuyến tính đều tỏ ra không
phản ảnh đúng âm tiết tiếng Việt, trong đó thanh có vai trò rất khác biệt yếu
tố điệu tính cuả ngôn ngữ Ấn Âu. Chẳng hạn, khi muốn đưa thanh điệu vào cấu
trúc âm tiết tiếng Việt biển /biẻn/,
quan điểm ngữ âm phi đoạn trình bày một mô hình nhiều lớp như sau: (a) lớp thứ
nhất có thể gọi tên là tầng khung,
trình bày mô hình âm tiết; (b) lớp thứ nhì đi vào chi tiết về mặt âm điệu cuả
âm tiết, có thể gọi tên là tầng âm đoạn
cho thấy các âm tố phân bố trong cấu trúc như thế nào; (c) lớp thứ ba ghi lại
các âm tố xếp đặt theo trật tự tuyến tính cuả âm tiết, gọi là tầng chiết đoạn; (d) lớp cuối cùng là tầng ngôn điệu, thể hiện tuyến điệu cuả
thanh trong âm tiết như thế nào.


Mô hình
như trên cho thấy đường nét cuả thanh trong âm tiết là đường nét cao-thấp-cao (HLH), nhưng mặt khác lại không
cho thấy được tính cách cụ thể cuả thanh 4 (thanh hỏi), và vị trí cuả nó trong toàn bộ sáu
thanh cuả tiếng Việt ra sao. Nói cách khác, mô hình âm tiết như trên vẫn không
thể hiện được thanh điệu cuả loại ngôn ngữ có thanh.
Từ những
đặc tính trên đây cuả âm tiết tiếng Việt, việc xác định cấu trúc cuả âm tiết là
một phần việc quan trọng không chỉ có ý nghiã đối với nghiên cứu ngữ âm học, mà
còn rất có ý nghiã về mặt giáo dục, cụ thể là việc dạy học tiếng Việt cho trẻ ở
giai đoạn đầu tiên.
1 Trong công trình nghiên cứu về tiếng Việt,
Lê Văn Lý bàn về các cách kết hợp cuả âm vị tiếng Việt thành những âm hiệu có ý
nghiã, tức là một âm tiết (1948: 42). Và ông cho rằng có bốn loại âm hiệu tiếng
Việt như sau (1948:123):
1.Chỉ có nguyên âm;
2.Nguyên âm + Phụ âm;
3.Phụ âm + Nguyên âm
4.Phụ âm + Nguyên âm + Phụ âm.
Mặc dù
thưà nhận rằng mỗi âm hiệu tiếng Việt chỉ có thể mang một thanh (tr.126), tác
giả vẫn cho rằng mỗi âm hiệu tiếng Việt không thể có quá ba âm vị. Sở dĩ thế là
vì ông cho rằng thanh chỉ là một yếu tố ngôn điệu như trong ngữ âm tiếng Ấn Âu,
và do vậy không phải là một âm vị gắn liền với âm tiết. Nói các khác, âm tiết
tiếng Việt -theo như mô tả trong Le
Parler Vietnamien - chỉ gồm ba âm vị tuyến tính như được ghi lại trên kia.
Trong một công trình khác xuất bản hai mươi năm sau, Lê Văn Lý vẫn ghi lại đúng
những quan niệm cuả ông như đã từng bàn đến trong tập trước. (Lê 1968: 21-24).
Vì lẽ đó chúng tôi xếp quan điểm cuả ông vào quan điểm mô tả theo cấu trúc CV
hiểu theo nghiã rằng quan điểm cuả tác giả là chỉ chú trọng đến các yếu tố
tuyến tính mà bỏ ra ngoài các yếu tố phi tuyến tính:
Loại 1: V
Loại 2: VC
Loại 3: CV
Loại 4: CVC
Nguyễn Bạt
Tuỵ cũng bàn về âm tiết, mà ông gọi là "vần". Tác giả định nghiã
"vần" là một hay nhiều âm cùng phát ra một hơi mà lập thành một tiếng
hay một phần tiếng. Ông cũng lưu ý độc giả là đừng nên lẫn với "vận"
-là sự trở lại cuả cùng một âm ở cuối hai hay nhiều câu thơ. (Nguyễn 1949: XII).
Khi mô tả các dạng kết hợp "vần", tác giả cho rằng "vần"
tiếng Việt có ba loại lớn (sđd :
78-85):
1.vần chính là vần có toàn âm chính ghép thành;
2.vần bán là vần do âm chính và âm bán
ghép thành;
3.vần phụ là vần do âm chính và âm
phụ, hay âm chính, âm bán và âm phụ ghép thành.
Tác giả có
bàn về việc ghép thanh vào mỗi "vần", nhưng quan niệm cuả ông không
thật rõ ràng. Một đằng tác giả vẫn cho rằng thanh gắn liền với âm chính, và ông
cho các âm chính mang thanh khi ghép "vần"; đằng khác, khi phân loại
các "vần" thì ông lại chỉ nhắc đến ba thành phần âm vị là âm chính,
âm bán, âm phụ mà thôi, nghiã là các âm vị tuyến tính -nếu nhìn từ quan điểm ngữ âm học loại hình
ngôn ngữ Ấn Âu.
Trong
những buổi đầu cuả ngữ âm học tiếng Việt, một tác giả khác cũng bàn về cấu trúc
âm tiết tiếng Việt, là Emeneau (1951). Đáng chú ý là tác giả nhận ra từ khá sớm là từ cuả
tiếng Việt trong nhiều trường hợp đã trùng khít với âm tiết. Và vì thế, từ có
thể là một hạt nhân chủ yếu gồm một trong nhóm cuả 11 nguyên âm, hay những kết
hợp khác nhau cuả hai hay ba âm vị cuả
nhóm đó. Trước phần hạt nhân này có khi không có gì, hoặc là có một trong 21 âm
vị phụ âm. Sau phần hạt nhân có thể không có gì (một số tổ hợp nguyên âm không
cho thêm gì nưã cả), hoặc là có một trong 8 phụ âm mà trong đó có 7 tương tự
với nhóm 21 phụ âm đầu.
Tác giả
cũng nhắc đến vai trò cuả thanh điệu, và cũng nhận thấy là các tổ hợp âm vị đều
có một trong 6 thanh và trọng âm đặt ở nguyên âm đầu hay nguyên âm thứ nhì. Tuy
vậy, sơ đồ cấu trúc âm tiết tiếng Việt
được tác giả mô tả là một tổ hợp cuả "phụ âm + nguyên âm + phụ âm". Điều đó cho thấy
quan điểm cuả tác giả vẫn không ra ngoài quỹ đạo cuả quan điểm ngữ âm Ấn Âu,
xem âm tiết chỉ là một kết hợp cuả những âm vị tuyến tính mà thôi.
Laurence
Thompson (1965) là người tiếp thu những biện giải cuả các tác giả trường phái
Nga (như Andreev và Gordina) nhưng đã đẩy xa hơn mà nhìn nhận vai trò cuả thanh
điệu như là một thành phần không thể thiếu trong kết cấu âm tiết tiếng Việt.
Ông nhận ra cấu trúc âm tiết tiếng Việt chỉ đơn giản là một kết cấu gồm ba
thành phần: âm đầu + hạt nhân + thanh điệu, trong đó hạt nhân là nguyên âm và
bất kì âm vị nào đi theo sau nó. Ở điểm này, tác giả không nói thêm là
"hạt nhân" cuả âm tiết có phải là một kết hợp bậc hai cuả cấu trúc,
hay chỉ là sự mở rộng cấu trúc ba phần đó. Chỗ khác ông lại cho thấy rằng một
âm tiết có ít nhất là một nguyên âm và một thanh. (Thompson 1965:45). Sau đó,
khi mô tả cấu trúc cuả thành phần hạt nhân âm tiết, tác giả cho biết là hạt
nhân âm tiết tiếng Việt có thể là gồm một
yếu tố (một nguyên âm), hoặc hai yếu
tố (bao gồm một nguyên âm và một bán âm hay một phụ âm cuối), cũng có thể
là một kết cấu ba yếu tố (gồm một
nhóm nguyên âm và một phụ âm cuối).
Tác giả không trình bày thêm về mối quan hệ
thứ bậc cuả các "yếu tố" vưà nêu đối với cấu trúc âm tiết. Mặc dù
vậy, đây là một bước tiến rất lớn trong việc tìm hiểu âm tiết tiếng Việt. Ít ra
là cũng từ đây đã hình thành một quan điểm khác về cách nhìn cấu trúc âm tiết
tiếng Việt. Các tác giả đi sau vẫn thường nối tiếp ông mà phát triển thêm quan
điểm cho rằng âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc hai bậc:
Cấu trúc
âm tiết tiếng Việt được mô tả như trên tỏ ra rất khớp với khuôn mẫu chung cuả
âm tiết mà Pike lập ra, chỉ khác chăng là ở mô hình Pike đưa ra trước kia không
có yếu tố thanh điệu.
2 Trong số những tác giả người Việt nghiên
cứu về âm tiết tiếng Việt có Nguyễn Quang Hồng chủ trương khác hẳn các tác giả
khác. Trong một bài nghiên cứu dưạ theo luận án đệ trình năm 1974, tác giả dưạ
trên cơ sở tiếng Việt và tiếng Hán mà chủ trương rằng tiết vị (syllabème) là
đơn vị âm thanh cơ bản cuả ngôn ngữ. Ông có nhận xét về tính cách khác biệt cuả
hai loại hình ngôn ngữ Ấn Âu và ngôn ngữ đơn tiết: trong khi ở các ngôn ngữ
loại trên những đơn vị cơ bản cuả ngôn ngữ là âm vị, các ngôn ngữ loại dưới lấy
âm tiết làm đơn vị phân tích cuối cùng. Ông theo truyền thống âm vận học Trung
Hoa và các nhà đông phương học Nga mà xem âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc
chung, "đơn nhất" - hiểu theo nghiã cuả tác giả là một đơn vị phân
tích ngữ âm nhỏ nhất, một tiết vị. Tác giả cho rằng âm tiết tiếng Việt chỉ gồm
có hai yếu tố cấu thành, là khuôn thanh và khuôn vần, kết hợp nhau theo thế
lưỡng phân. Khuôn thanh có thể vắng mặt, nhưng khuôn vần luôn luôn có mặt.
Khuôn thanh và khuôn vần lại có thanh điệu là yếu tố siêu đoạn tính thực hiện
chức năng khu biệt các hình tiết; ngoài ra, hình tiết tiếng Việt còn một dạng
âm sắc rất đặc biệt, gọi là "hô". Tác giả cho một vài trường hợp thí
dụ về "hô": sự đối lập rõ rệt về "hô" (khai khẩu/hợp khẩu)
trong các cặp âm tiết như kè-què,
lan-loan, xiên-xuyên... và nói thêm là thanh và hô chỉ là những yếu tố phụ
trợ, khi thì gắn liền với khuôn vần, khi thì với khuôn thanh, có khi gắn với cả
hai. (Nguyễn 1976: 36). Sơ đồ cấu trúc âm tiết tiếng Việt theo Nguyễn Quang
Hồng là:

Quan điểm
về âm tiết là đơn vị cơ bản cuả tiếng Việt thật ra đã được biết đến từ sớm hơn
thế. Cao Xuân Hạo đã trình bày "quan điểm phi đoạn về âm vị và cấu trúc âm
tiết tiếng Việt" (1965), trong đó ông đã khẳng định là "âm vị tự bản
chất là phi đoạn". Tác giả đã nêu ra ba yếu tố cuả âm tiết phát sinh đồng
thời: thanh điệu, âm chính và tính chất cuả mối quan hệ cấu âm. Sự kết hợp phi
tuyến tính như vậy cho thấy là âm tiết tiếng Việt không phải là một kết hợp cùng tính chất như trong các ngôn ngữ ấn
âu. Trong một công trình quan trọng về cấu trúc âm tiết tiếng Việt ra đời mười
năm sau, Cao (1975) lại khẳng định tính không phân lập cuả âm tiết tiếng Việt.
Ông đưa ra một minh hoạ về tính cách phi đoạn cuả âm tiết tiếng Việt so sánh
với âm tiết ấn-âu qua thí dụ về một âm tiết [lun] như sau:

Trong bài
nghiên cứu in trong tập san Études
Vietnamiennes 40 (1975), Hoàng Tuệ & Hoàng Minh (tức Cao Xuân Hạo) lại đưa ra một cấu trúc
tầng bậc, trong đó đáng chú ý là tác giả đưa mối quan hệ kết hợp giưã âm chính
và âm cuối vào trong sơ đồ cấu trúc. Khi thưà nhận vai trò khu biệt âm tiết cuả
yếu tố tuyến điệu trong cấu trúc âm tiết (thanh điệu và quan hệ kết hợp) là
thưà nhận những yếu tố phi tuyến tính bên cạnh những kết hợp tuyến tính cuả các
âm vị tiếng Việt. Đây là một điểm mới trong nghiên cứu tiếng Việt.

Quan điểm
phi đoạn về âm tiết tiếng Việt về sau được kết tập trong một công trình lí
thuyết quan trọng cuả Cao Xuân Hạo, Phonologie
et Linéarité (1985). Lí thuyết phi đoạn về âm tiết tiếng Việt có ý nghiã
lớn ở chỗ đã nêu lên được tính cách đặc thù cuả âm tiết tiếng Việt so sánh với
các ngôn ngữ loại hình khác. Mặc dù những đóng góp quan trọng về lí thuyết ngữ
âm học phi đoạn, cho đến nay, các nhà ngữ âm Việt Nam dường như vẫn dừng lại ở
việc mô tả âm tiết tiếng Việt theo quan điểm "truyền thống", là quan
điểm chính thống dưới đây.
3 Hiện nay quan điểm tầng bậc về cấu trúc âm
tiết tiếng Việt vẫn còn đang là một thứ quan điểm "chính thống". Đó
là quan điểm được trình bày trong cuốn sách giáo khoa về ngữ âm tiếng Việt cuả
Đoàn Thiện Thuật (1977). Tác giả trình bày sơ đồ cấu trúc âm tiết trên dưới hai
dạng: biểu đồ hình cây và hình hộp. Dưới dạng hình hộp, sơ đồ cấu trúc cuả tác
giả cho thấy rõ tính cách bao trùm cuả thanh điệu lên toàn bộ cấu trúc âm tiết:
Tác giả
chỉ chú trọng lên sơ đồ các âm vị tuyến điệu và phi tuyến điệu kết hợp thành âm
tiết mà xem các mối quan hệ là một yếu tố bên ngoài thành phần âm vị. Trong sơ
đồ cấu trúc cuả tác giả, những âm tiết khởi đầu bằng một nguyên âm như dạng
dưới đây:
(a)
nguyên âm +
thanh: A ! Ồ ! Ơ
! Uả !
và (b) nguyên âm + thanh + phụ âm cuối:
Ấy ! Ối !
được tác giả xem như là các âm tiết có "âm đầu
zéro" về mặt biểu hiện ra chữ viết, nhưng tác giả lại cho rằng các âm tiết
đó thật ra vẫn có âm đầu - ở đây là âm tắc hầu
/ ʔ / đứng làm âm đầu. Một nét khác biệt nưã là thành phần âm đệm cuả âm
tiết nay đã trở thành một bộ phận vần cuả âm tiết. Quan điểm về cấu trúc âm
tiết tiếng Việt trình bày trong quyển Ngữ
Âm Tiếng Việt (1977) đã trở thành quen thuộc trong học giới trong nhiều năm nay. Quyển sách này được xem là một thứ "kinh điển" để tham
khảo nghiên cứu và giảng dạy ở trong nước.
IV
Lướt qua
những quan điểm khác nhau về mô hình cấu trúc âm tiết tiếng Việt cuả các tác
giả trên đây, có thể thấy rằng chúng phản ảnh đà tiến chung cuả việc nghiên cứu
âm tiết nói chung: sự phát triển việc tìm hiểu âm tiết tiếng Việt từ Lê Văn Lý
đến nay ghi nhận một sự phát triển từ quan niệm chỉ mô hình hoá những kết hợp
cuả các âm vị tuyến tính (nguyên âm và phụ âm), đến sự quan tâm đến những yếu
tố phi tuyến tính (thanh, mối quan hệ kết hợp giưã nguyên âm và phụ âm
cuối).
Tuy nhiên,
cho đến nay, các sơ đồ cấu trúc âm tiết tiếng Việt kiểu tầng bậc đều tỏ ra còn
lúng túng về một số điểm lớn, khiến cho việc mô tả cấu trúc âm tiết tiếng Việt
chưa giàu tính thuyết phục. Những điểm còn cần tìm hiểu thêm có thể quy ra như
sau:
1. âm tiết
tiếng Việt là một cấu trúc, nghiã là một chỉnh thể kết hợp từ những thành phần.
Nhưng có bao nhiêu thành phần kết hợp mà thành ? Cho đến nay, các tác giả có
thể đồng ý với nhau về ba thành phần căn bản cuả âm tiết tiếng Việt, là thành
phần đứng làm âm đầu, âm chính, âm cuối, và thanh điệu. Nhưng khi đi vào phân
tích chi tiết, các quan điểm khác nhau là ở vấn đề dưới đây:
2. âm tiết
tiếng Việt có thành phần gọi là âm đệm hay không ? Trả lời câu hỏi này không
tránh khỏi việc xem xét lại bản chất cuả hai âm vị thường gọi là bán âm /-u-/
và /-i-/ .
3. Mối quan hệ
giưã các thành phần trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt là mối quan hệ tầng bậc
hay là mối quan hệ ngang hàng ? Có thể mô hình hoá vị trí cuả các âm vị tuyến
điệu được không ?
Dưới đây
là một số đóng góp thảo luận về ba câu hỏi trên đây. Để trả lời câu hỏi 1,
chúng ta sẽ thảo luận về vai trò cuả vần trong cấu trúc âm tiết. Câu hỏi 2 dẫn
đến việc xem xét lại hệ thống nguyên âm tiếng Việt -là loại âm vị đảm nhận vai trò âm chính
trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt, và hệ thống phụ âm cuối cuả tiếng Việt. Câu hỏi 3 sẽ đặt trong phạm vi vấn đề vai trò
cuả thanh điệu và mối quan hệ kết hợp bên trong âm tiết.
Vần cuả âm
tiết ?
Khi đưa ra
mô hình cấu trúc âm tiết hai bậc (Hình 7, 10 và 11), có tác giả đã lập luận
rằng đây là một cấu trúc có thật trong cảm nhận cuả người bản ngữ, và như vậy
nó là một cấu trúc tự nhiên (Cao, 1985). Việc nhận biết vần cuả tiếng Việt như
vậy là sự nhận biết từ cấu trúc khái quát hoá trong tâm lí cuả người bản ngữ.
Bảo rằng vần của âm tiết tiếng Việt là một thành phần cấu trúc có thật trong
tâm thức của mỗi người bản ngữ có nghiã rằng vần cuả âm tiết không phải là tính
cách cuả chính tả, nếu nhớ rằng chữ viết ô vuông cuả tiếng hán và kiểu chữ nôm
cuả tiếng Việt trước kia cũng đều không cản trở việc gieo vần trong phép làm
thơ phú; mà việc nhận ra vần là một việc cần thiết để có thể tập làm câu đối,
làm thơ phú, nghiã là một phần rất quan trọng trong giáo dục trường quy.
Cảm nhận
tự nhiên về 'khuôn vần' trong tâm lí người bản ngữ là một tri giác ngôn ngữ
chung cho mọi ngôn ngữ. 'Khuôn vần' âm tiết loại hình ngôn ngữ đơn tiết thì đã
được các nhà âm vận học quan tâm ở Trung Hoa và Việt Nam cổ đại. Khuôn vần là
phần còn lại cuả âm tiết khi đã tách khỏi âm đầu. Dùng khái niệm ngữ âm ngày
nay thì có thể nói: khuôn vần là tập hợp cuả âm chính, âm cuối (hai âm vị tuyến
tính) và thanh điệu (âm vị phi tuyến tính) cuả một âm tiết. Sự nhận biết khuôn
vần rất can hệ đối với việc gieo vần trong phép làm thơ, vì gieo vần chính là
sự thực hành phép hoà phối ngữ âm trong nghệ thuật thi ca vậy. Khái niệm 'khuôn
vần' như thế có phần khác với 'vần' trong thuật ngữ ngữ âm phương tây, vì vần
cuả âm tiết các ngôn ngữ kia chỉ là kết hợp cuả hạt nhân âm tiết và phần âm
cuối, là hai loại âm vị tuyến tính mà thôi.
Cho dù có
đồng nhất hai khái niệm vần cuả âm tiết và 'khuôn vần' trong âm vận học cổ điển
phương đông thì vẫn hãy còn một vấn đề cần xem xét: đâu là lằn ranh phân cách
khuôn vần và thành phần bên cạnh nó ? Chúng
ta thường cho rằng khuôn vần là phần còn lại cuả âm tiết ở sau phần âm đầu.
Ngay trong số các tác giả nghiên cứu ngữ âm loại hình ngôn ngữ Ân Âu cũng đã
thấy quan niệm khác về thành phần gọi là hạt nhân âm tiết. Sơ đồ cấu trúc âm
tiết cuả họ đã đưa thành phần âm đầu và âm chính vào hạt nhân cuả âm tiết. Vậy
thì cấu trúc vần có phải là một cấu trúc cố định, hay chỉ là những kết hợp lâm
thời ? Nhưng những cứ liệu tâm lí ngôn ngữ cho thấy là 'khuôn vần' có thể có
hơn một lằn ranh phân cách. Trẻ con không quan niệm học vần theo như những quy
định truyền thống. Chúng tôi ghi nhận được một số cách ghép vần cuả một số cháu
bé Việt Nam, theo những mô hình như sau:

bà ba -- ` bà
nhau nha -- u nhau
Hoạt động ghép tiếng cuả trẻ trong trường hợp kể trên
là từ một âm tiết mở tiến về một âm tiết khép, đúng theo tiến trình học tập
phát âm tự nhiên cuả tâm lí ngôn ngữ.
Thưà nhận
rằng ý niệm vần là một tri thức tự nhiên, thì cũng không vì thế mà bảo là vần
cuả âm tiết tiếng Việt là khối cấu trúc chặt chẽ đối lập với thành phần âm đầu.
Hiện tượng nói lắp khiến cho một người Việt có thể nói tiếng lốp thành chuỗi âm /lə-lə-lə-lop/, nhưng
một người Nga nói lắp thì có thể nói tiếng lob
thành một chuỗi /lo-lo-lo-bə-bə-bə/. Sở dĩ thế là vì lằn ranh phân cách các
bộ phận cuả âm tiết không nhất thiết là cố định, và người nói không thể phát âm
theo dạng phân xuất C+VC [C: phụ âm-V: nguyên âm] như một người Việt, mà lại
phân xuất CV+C (Cao, 1985:194). Vậy thì sự nhận biết vần cuả âm tiết tiếng Việt
là thuộc về nhận thức về mặt cấu trúc hay về mặt tâm lí ?
Khái niệm
cấu trúc chìm và cấu trúc nổi cuả Chomsky cho đến nay vẫn chỉ dùng trong ngữ
pháp tạo sinh. Nhưng nếu hiểu cấu trúc chìm quyết định ý nghiã cuả câu và cấu
trúc nổi hiểu như là yếu tố ngữ âm, thì hai tầng cấu trúc này là những tầng bậc
không chỉ riêng gì cho cú pháp, mà là những phạm trù phổ biến cho cả các lĩnh
vực khác cuả ngữ pháp. Khái niệm "yếu tố quyết định ý nghiã cuả câu
nói" trong ngữ pháp bao hàm ý niệm khái quát về những yếu tố được nhận
thức trong hoạt động ngôn ngữ nhưng không minh nhiên biểu hiện trên cấu trúc
vật lí cuả âm thanh. Vần là hạt nhân cuả âm tiết, là yếu tố quyết định tính âm
tiết cuả âm tiết; do vậy nhận thức về vần nằm ở cấu trúc tâm lí ngôn ngữ (cấu
trúc chìm) cuả âm tiết. Trong khi đó, kết hợp âm vị cuả âm tiết dù có phân
thành nhiều đẳng trật, vẫn là cấu trúc nổi cuả âm tiết, là những biểu hiện về
mặt ngữ âm. Và chính cái cấu trúc nổi đó là đối tượng cuả phân tích ngữ âm-âm
vị học. Âm tiết /bàn/ có hai bậc cấu
trúc mặt cấu trúc: bậc 1 gồm có thanh huyền T + âm đầu Đ + khuôn vần V, bậc 2
là cấu trúc của vần gồm có âm chính làm hạt nhân N + một âm cuối C, Về mặt ngữ
âm, cấu trúc của âm tiết / bàn / chỉ gồm có những thành phần Đ + N +C | T. Hai
mô hình âm tiết dưới đây có thể cho thấy sự tương quan giữa hai cấu trúc này:

Để chứng minh bộ phận vần là một lớp cấu trúc có ý nghiã trong việc phân xuất âm
tiết, các tác giả Việt Nam còn
thường viện dẫn những phép thay thế thành phần âm vị cuả âm tiết trong các phép láy từ, phép nói
lái, và phép tạo từ với vần /-iek/ mà họ gọi là phép -iêc hoá ( Vũ 1976: 42, Đoàn 1977:84-85, Cao 1985: 194).
Cả ba phép
tạo từ này đều dùng biện pháp thay thế các âm vị trong một âm tiết. Khả năng
phân xuất âm vị ở cả mọi thành phần cấu tạo âm tiết trong phép láy từ và phép
nói lái cho thấy âm tiết chỉ là một cấu trúc chứ không phải một khối đơn vị âm
thanh bất khả phân. Một điểm khá quan trọng liên quan đến phép láy và phép nói
lái, là: có thể láy và nói lái cả bốn thành phần cuả âm tiết chứ không chỉ
chiết xuất âm đầu và vần theo dạng đối lập C|(VC) mà thôi như các tác giả trên
vẫn thường biện luận (Võ,1982: 41-42).
Trước hết,
hãy thử xét phép láy từ. Các sách ngữ
âm thường dưạ vào lối phân xuất âm đầu
| vần
để nói đến hiện tượng láy bộ phận âm đầu, láy vần, và láy thanh điệu.
Trước hết, tách thanh ra khỏi khuôn vần là một thao tác không hợp lí, vì thanh
là yếu tố gắn bó với khuôn vần này. Sau nưã là có nhiều từ láy không lắp lại
toàn bộ vần mà chỉ một bộ phận của nó thôi: thòm
thèm chẳng hạn, không lắp lại âm /e/ mà lại biến âm thành /o/. Xem vậy thì
dùng khái niệm vần hay khuôn vần trong khi phân tích hiện tượng láy từ không
tránh khỏi lúng túng.
Quan sát các trường hợp láy từ sẽ dễ dàng nhận thấy
không phải chỉ có một hai lối, mà có đến bốn cách láy:
-láy thành
phần thanh điệu: bâng quơ (thanh - +
-) , lụng thụng (thanh .+ .)
-láy thành
phần âm đầu: đỡ > đỡ đần
-láy thành
phần âm chính: lét > leo lét
-láy thành
phần âm cuối: chúm > chúm chím
Chúng tôi thấy phải phân xuất âm tiết làm bốn thành
phần thì việc phân tích hiện tượng láy trở thành sáng tỏ và rất hệ thống. Bốn
thành phần này chính là bốn thành phần cấu thành một âm tiết tiếng Việt vậy.
Trong các phép láy từ có phép lặp một thành phần cho thấy rõ tính cách kết hợp
bình đẳng cuả các thành phần âm tiết.
Đến phép nói lái
cũng vậy. Các tác giả giáo khoa ngữ âm tiếng Việt thường dưạ trên sự phân xuất âm đầu | vần để phân tích hiện tượng nói lái.Và họ không cho rằng nói lái con vịt thành vin cọt là hiện tượng bình thường (Đoàn 1977). Thu thập các lối nói
lái sẽ có thể nhận ra tính cách nhất quán và hệ thống của phép nói lái, theo đó
thì có tối đa bốn cách nói lái, căn cứ
trên sự hoán chuyển vị trí cuả các thành phần cấu thành cuả âm tiết. Chẳng hạn,
có thể mượn lại hai ví dụ cuả Cao (1985:194) để thảo luận:
·đi trốn có thể lái
thành: tri đốn (lái âm đầu), đô trín
(lái âm chính), đin trố (lái âm
cuối), trôn đí (lái thanh điệu);
·lính tây có thể lái thành:
tính lây (lái âm đầu), lếnh ti (lái âm chính), lí tênh (lái âm cuối), tấy linh (lái thanh điệu).
Cho nên, có thể nói một các chính xác rằng một ngữ
đoạn hai âm tiết có thể láy bốn lối bằng cách chiết xuất một thành phần cuả âm
tiết đó.
Tóm lại, tự thân chúng, hai phép láy từ và nói lái
chưa đủ để bảo rằng vần có vai trò nào trội hơn trong cấu trúc âm tiết. Có
chăng chỉ là dưạ trên căn cứ này để nhận ra rằng âm tiết tiếng Việt là một cấu
trúc gồm bốn thành phần mà thôi. Có nhìn nhận vấn đề như thế mới không lấy làm
ngạc nhiên về hiện tượng lái con vịt thành
vin cọt mà các tác giả thường trích
dẫn, bởi vì đó chỉ là một trong bốn cách hoán vị bốn thành phần âm tiết mà
thôi.
Phép -iêc hoá trong tiếng Việt là hiện tượng
ngữ âm đáng chú ý. Trước hết, là sự kiện lắp nguyên tổ hợp -iêc để
tạo một từ mới thì chỉ là một phép tạo ra một từ mới thuộc nhóm mà Durand gọi
là "cảm từ" mới đặc biệt khác. Tổ hợp -iêc có khả năng ghép thành từ kép rất rộng, vượt khỏi lệ đối xứng
về phát âm với các thành phần khác, như âm đầu, âm chính, thanh, và phụ âm
cuối, lại càng không có trở ngại nào đối với các từ âm tiết mở đi kèm trước nó.
Lợi thế về phát âm và kết hợp chính là một lí do vì sao tổ hợp -iêc trở thành một tổ hợp đặc biệt trong
phép tạo từ kép. Thật ra thì trên bình diện ngữ âm-âm vị học thuần tuý, chúng
ta có hàng loạt đơn vị dưới bậc âm tiết như -iêc,
nhưng không vì thế mà phải viện dẫn những phân tích hình vị để nhằm nêu ra tính
cách độc đáo cuả hiện tượng -iêc hoá
mà các tác giả trường phái Nga đã theo chân Gordina trong bao lâu nay. Một số
thí dụ dưới đây có thể là những gợi ý cho những minh hoạ khác về khả năng kết
hợp và hoán chuyển âm vị trong cấu trúc âm tiết: đơn vị l- trong "lùm xùm", "lí lắc", "lăng
xăng"..., k- trong "cà chớn", "cà ngơ", "cà
ẹo", b- trong "ba
trợn", "ba buá", ba lăng nhăng",... trong
những mô hình láy từ các phương ngữ miền trong. Khả năng kết hợp rộng cuả một
số tổ hợp như tổ hợp -iêc chỉ có thể
dẫn đến kết luận khiêm tốn là có một lằn ranh giưã thành phần âm đầu và phần còn
lại cuả cấu trúc âm tiết. Nhưng như thế thì chưa đủ để xem lằn ranh giưã âm đầu
và phần còn lại là có ý nghiã âm vị học cao hơn lằn ranh phân cách giưã thanh
và ba âm vị khác, hoặc giưã các thành phần khác với nhau, như đã thể hiện trong
hai phép láy từ và phép nói lái trình bày trên kia.
Tóm lại,
xét trên bình diện ngữ âm-âm vị học, chưa có luận cứ nào có đầy đủ tính cách
thuyết phục về vai trò lớn cuả thành phần gọi là vần trong cấu trúc âm tiết
tiếng Việt. Căn cứ vào những biện giải về phép láy từ, phép nói lái và phép tạo
từ với tổ hợp -iêc chỉ cho phép kết
luận rằng: âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc gồm bốn thành phần, trong đó hai
thành phần làm nên âm tiết tính là không thể thiếu được, đó là âm chính và
thanh điệu. Cả bốn thành phần này khi có mặt trong âm tiết thì đều có vai trò
và chức năng ngang nhau trong âm tiết, mà phép láy từ và phép nói lái là những
thể hiện các lối hoán chuyển vị trí các thành phần cuả cấu trúc âm tiết mà
thôi.
Có âm đệm
trong âm tiết tiếng Việt hay không ?
Các công
trình mô tả ngữ âm tiếng Việt trước nay thường tranh luận nhiều về một đơn vị
ngữ âm thường xuất hiện giưã âm đầu và âm chính cuả âm tiết. Qua sự phân tích
trên đây thì có thể thấy cấu trúc âm tiết bao gồm bốn thành phần. Nếu như vậy thì chỗ đứng cuả một thành phần
gọi là âm đệm thường được nhắc đến
trong các sách giáo khoa trước đây là ở đâu? Vấn đề được đặt ra ở đây là: âm
tiết tiếng Việt có một thành phần nằm giưã âm hai phần âm đầu và âm chính hay
không ?
Đây là một
vấn đề còn đương gây nhiều tranh cãi giưã các tác giả khi miêu tả âm vị học
tiếng Việt. Có thể ghi nhận được ba giải thuyết chính về vấn đề này.
(1) Hiện tượng
thần âm hoá (môi hoá): Lê Văn Lý (1948, 1968) cho rằng hiện tượng chúm môi đi
kèm với âm đầu là tính cách cuả âm đầu, và ông cho đó là hiện tượng "thần
âm hoá" (labialisation). Tác giả cho rằng hầu hết các phụ âm đầu đều có
hiện tượng thần âm hoá, và là một tính cách cuả phụ âm đầu chứ không phải là
một nét khu biệt làm cho một phụ âm đầu có thể trở thành hai âm vị đối lập nhau
về tính cách, chẳng hạn /t/ đối lập với /tw/.
(2) Âm /w/ là bộ phận cuả một thành phần âm tiết:
Phần đông các tác giả đều cho hiện tượng chúm môi đó là hiệu quả cuả một bán âm
/ -w- / chen giưã phụ âm đầu và nguyên
âm. Emeneau (1951) xem âm /w/ là một âm vị hẳn hoi. Tuy nhiên, ông cho rằng có
thể xem vai trò cuả / w/ này là một vai trò nước đôi: hoặc là một phần cuả hạt
nhân âm tiết, hoặc cũng có thể là một phần cuả cụm âm đầu.
Cũng xem
hiện tượng chúm môi này là hiện tượng 'môi hoá', các tác giả khác (Hoàng et al., 1962) lại kết hợp với quan điểm
thứ nhì mà cho là chúng có tính cách nước đôi: có thể xem như là một tính cách
cuả âm đầu, hoặc là một thành phần trước âm chính. Tác giả đưa ra công thức cuả âm tiết không có
phụ âm đầu là WV, trong đó /w-/ là một âm vị đảm nhận vai trò như một âm đầu
cuả âm tiết.
Bán âm này
thuộc về âm đầu hay âm chính cuả âm tiết ? Ý kiến cuả các nhà nghiên cứu khá
phân tán: có ý kiến cho bán âm /-w-/ thuộc về âm đầu (Thompson 1965); những
người khác lại xem bán âm /-w-/ là một âm vị riêng kèm theo sau phụ âm đầu
(Hoàng & Hoàng 1975).
(3) Âm chúm môi
/-w-/ là âm vị độc lập, làm thành phần cuả âm tiết: một số các nhà nghiên cứu
trường phái Nga (Đoàn 1977), cho rằng âm /w/ là một âm vị riêng, có chức
năng vai trò riêng trong âm tiết tiếng Việt: đó là những âm đệm nằm giưã thành
phần âm đầu và âm chính cuả âm tiết. Và vì vậy, những âm tiết nào không có âm
đệm thì chỉ là vì chúng có 'âm đệm zero' (Đoàn 1977:187).
Xem thế
thì ý kiến cuả các nhà ngữ âm về vấn đề bán âm (hay âm đệm) /w/ rất khác biệt.
Mỗi giải thuyết đều để lại rất nhiều vấn nạn chưa có giải đáp.
Trước hết,
xem /-w-/ là một hiện tượng thần âm hoá (môi hoá) mới chỉ là dưạ trên sự cấu âm
mà chưa giải đáp rõ hơn để xác định hiện tượng cấu âm này là hiện tượng chính
hay chỉ là phụ thứ. Nếu là hiện tượng ngữ âm chính và là một nét khu biệt cuả
âm đầu hay âm chính, thì chúng phải được đưa vào hệ thống phụ âm đầu hay nguyên
âm; nếu chỉ là hiện tượng ngữ âm phụ, một nét hoa mĩ cuả các âm đầu hay âm
chính mà thôi, và như thế thì chúng không phải là thành phần âm tiết. Nói khác
đi, giải thuyết thứ nhất không làm sáng tỏ vai trò cuả âm /-w-/ trong âm tiết.
Quan điểm
ngược lại, xem /w/ là thành phần cuả âm đầu cũng không đủ sức thuyết phục, vì
lằn ranh giưã âm đầu và âm chính trong một số âm tiết cho thấy là hiện tượng
chúm môi không nhất thiết thuộc về âm đầu: b-âng
kh-uâng, l-ay h-oay, s-ượng s-ùng, th-uế th-iếc, l-ẩn q-uẩn.... Một luận điểm khác cuả quan điểm này là
sự biện biệt giưã âm /-w-/ trong âm
tiết " quá" / kuá / và
"cuá" / kuó /. Tác giả cho rằng đó là hai âm vị khác nhau: âm /-u/
trong tổ hợp / -ua/ là một âm đệm, vì nó là một âm yếu hơn nguyên âm chính, và
vì tính cách kết hợp cuả nó không bền vững mà có thể bị tách khỏi kết hợp
(trong phép nói lái và -iêc hoá, âm
/u-/ có thể tách khỏi tổ hợp /ua/). Trong khi đó thì âm / u-/ trong tổ hợp /uo/
là yếu tố cuả một âm đôi, vì nó có hai tính cách ngược hẳn: tính bền vững trong
kết hợp, và là một âm tố mạnh cuả tổ hợp. (Đoàn 1977:186, 197).
Những biện
giải về tính bền vững cuả các tổ hợp /ie/, /ươ/, /uo/, và về tính mạnh yếu cuả
âm /-u-/ trong các tổ hợp này và các tổ hợp âm chúm môi khác có thể là những ý
kiến cần phải xem xét lại, vì không sát với thực tế. Thật ra, dữ kiện thực
nghiệm đều xác nhận ý kiến cuả Lê Văn Lý là xác đáng: ông cho rằng
yếu tố thứ nhì trong các tổ hợp /ie/, /ươ/, /uo/ là những yếu tố cảm nhiễm
thanh mạnh hơn (Lê 1948:44). Âm /-w-/ trong hai kết hợp /ua/ và /uo/ không có
gì khác nhau cả: đường biểu diễn âm tiết đều cho thấy đỉnh cao cuả âm tiết là
nguyên âm thứ nhì, trong khi âm /-w-/ chỉ là một đỉnh thấp hơn. Những cứ liệu
thực nghiệm do chúng tôi thực hiện không cho thấy nét khác biệt về tính cách
đệm hay tính cách âm đôi cuả âm /-w-/ này (Hình 13).
Bảo rằng kết hợp cuả /-u/ trong các tổ
hợp /ie/, /ươ/, /uo/ là bền vững hơn các tổ hợp hai nguyên âm khác cũng thiếu
cơ sở: trong phép láy, phép nói lái, phép -iêc
hoá đều cho thấy là âm /u/ có thể bị tách ra
khỏi tổ hợp như trong các tổ hợp khác:
·phép láy: lẩn quẩn = luẩn quẩn, lay hoay = loay hoay;
·
phép nói lái: qua
đấy > quây
đá - ca đuấy... ; cua đá > ca đuá - qua đố
·phép -iêc hoá: thuế thiếc - * thuế thuyếc, nước niếc - * nước
nuyếc, cua kiếc - *cua quyếc
Tính cách
tương đồng này không chỉ giưã hai âm /-w-/ đang bàn ở đây, mà còn phổ biến ở mọi tổ hợp hai nguyên âm tiếng Việt.[1] Tất cả các cứ liệu thu nhặt được đều cho phép
chúng tôi xem xét lại bản chất cuả âm thường gọi là bán âm /-w-/ và cả /-i-/
nưã.
Những luận
điểm trên đây cuả các tác giả đi trước hầu hết đã bị ảnh hưởng cuả lối nhìn
nhận cuả ngữ âm học phương tây, mà ý kiến cuả Emeneau (1951) đã phản ảnh một
cách đầy đủ. Tuy vậy, ít ra Emeneau còn tỏ ra phân vân nước đôi, mặc dù ông đã
cố gắng nhiều để thoát ra ảnh hưởng cuả lối nhìn nhận âm tiết tiếng Việt theo
quan điểm tây phương. Ông vưà nhận ra tính cách trượt từ âm đệm /w/ sang một
nguyên âm thứ nhì ở vị trí trọng âm (các âm xếp vào loại từ âm sau-cao-tròn
sang âm sau-không tròn- hay âm trước-không tròn:
hoặc các âm ông gọi là âm ba lên-xuống
nhưng ông lại cho rằng
âm/-w-/ trong các tổ hợp / uâ, ươ/ là một âm mạnh. Chỉ có thể cắt nghiã rằng
việc cảm nhận phát âm cuả một người nước ngoài đã dẫn tác giả đến những mâu
thuẫn này.
Một điểm
vướng khác cuả lối nhìn hiện tượng /-u-/ như là một bán âm cuả phương tây, là
các tác giả đều cố ý bỏ sót một 'bán âm' khác: /-i-/. Bán âm trong ngữ âm học
là gì ? Đó là những âm rất phụ nhưng lại không đủ tính cách cuả một phụ âm mà
lại rất gần tính cách một nguyên âm. Khi phát âm thì bán âm trượt nhanh từ một
vị trí phát âm rất phụ và rất yếu đến vị trí
một nguyên âm. Bán âm thường là / w / và / i /. Nhưng các bảng mô tả bán
âm tiếng Việt thường cố tình quên bán âm trước / i / này. Một nhược điểm khác
nưã mà chúng tôi đã nhắc đến trong bài viết về nguyên âm[2], là các
tác giả Việt Nam đều bị ảnh hưởng cuả lối phân tích nguyên âm kép (dipthong)
theo nhãn quan phương tây, vốn xuất phát từ tập quán ngôn ngữ Ấn-Âu. Chính lối
nhìn khiên cưỡng như thế đã hơn một lần dẫn nhà nghiên cứu đến một thủ pháp
khiên cưỡng khác là xem những hiện tượng lạc ra ngoài mô hình cuả họ là 'âm vị
zero'!
Chúng tôi
căn cứ trên cứ liệu thực nghiệm để đề nghị một giải thuyết mới về vai trò cuả
các 'bán âm' ( hay 'âm đệm') [3], dưạ
trên một lối nhìn nhận khác với tập quán ngôn ngữ phương tây. Vì thế mà chúng
tôi đề nghị ở đây một mô hình cấu trúc âm tiết tiếng Việt đã không có thành
phần thứ năm là các 'âm đệm'. Chúng tôi xem hiện tượng gọi là bán âm hoặc phụ
âm cuối tròn môi / u-/ hoặc bẹt / i-/ không phải là một đơn vị âm vị học độc
lập với hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm cuối, và do đó không thể xem là
một thành phần riêng rẽ cuả cấu trúc âm tiết tiếng Việt. Các âm này chính là
một yếu tố làm thành một nguyên âm kép trượt tăng dần [4]. Trong âm
tiết, các nguyên âm trượt tăng dần này hoàn toàn có giá trị một âm vị làm thành
âm chính cuả âm tiết.
Thành phần
âm chính có bao nhiêu âm vị ?
Một vấn đề
đáng đặt ra cho ngữ âm tiếng Việt, là: tới chừng mức nào thì nguyên âm được
thưà nhận là một âm vị ? Nói cách khác, những tổ hợp nhiều nguyên âm trong một
âm tiết là một âm vị hay nhiều hơn ? Để trả lời câu hỏi đặt ra trên kia, trước
hết cần lưu ý một điều là rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới đều có hiện tượng
nguyên âm ngắn và nguyên âm dài. Về mặt âm học, thì một nguyên âm dài dài xuýt
xoát gấp đôi một nguyên âm ngắn, cho dù là tính cách cuả sự khác biệt còn tuỳ
thuộc vào các yếu tố ngữ âm khác trong lúc phát âm.
Nếu vấn đề
dài/ngắn cuả một nguyên âm là hiển nhiên, thì vấn đề nguyên âm đơn hay nguyên
âm kép sẽ có được nhìn nhận cùng một cách ? Nguyên âm kép - hay có tác giả gọi
là nhị trùng âm (Lê, 1968)- thường được hiểu là "hai nguyên âm đi liền
nhau, phát âm cùng lúc như là một nguyên âm". Hiểu như thế thì mỗi nguyên
âm trong tổ hợp nguyên âm kép là "một nưả" nguyên âm. Một điểm rất
đáng chú ý khác là nguyên âm thứ nhất thường chuyển nhanh sang nguyên âm thứ
nhì. Một phần tử cuả tổ hợp nguyên âm kép luôn luôn ở vị trí mạnh hơn phần tử kia.
Nếu yếu tố đứng trước mạnh hơn , như trong các tổ hợp / aj / trong tiếng Anh,
thì người ta gọi là nguyên âm kép giảm
dần. Tuy vậy, cũng có những ngôn ngữ lại có nguyên âm kép tăng dần, như tổ hợp / ia /, trong đó
yếu tố / a / mạnh hơn.
Tình hình
nghiên cứu về những kết hợp nguyên âm với hai âm /w/ và /i/ ở trước hay ở sau
nó cũng có nhiều giải thuyết khác nhau. Đối với kết hợp /w/ và /i/ ở sau nguyên
âm, chúng tôi xem chúng là hai phụ âm cuối, dưạ trên tính cách phụ âm rõ rệt
cuả chúng. Đối với những kết hợp trước nguyên âm khác, chúng tôi nhất loạt xem
hai âm này là nguyên âm thứ nhất trong tổ hợp nguyên âm kép. Chúng tôi căn cứ
vào sự phân bố thống nhất cuả các kết hợp /
w / + nguyên âm trong tiếng Việt là một hiện tượng nằm trong quy luật hoạt
động phổ biến cuả nguyên âm trong mọi ngôn ngữ: hiện tượng tổ hợp nguyên âm ( kép) trượt-tăng dần, và cho
rằng nét khu biệt cuả những kết hợp này khá thống nhất trong phần âm chính cuả
âm tiết. Các tổ hợp nguyên âm tăng dần có cùng tính cách và giá trị âm vị học
như nhau cuả một nguyên âm kép, từ mô hình kết hợp đến trường độ phát âm. Chẳng
hạn, cứ liệu thực nghiệm không cho thấy khác biệt nào giưã các tổ hợp hai
nguyên âm / ie, ươ, uo /, và các tổ hợp khác mà các nhà ngữ âm thường xem là
một bán âm + nguyên âm: / ua, ue, uie /. Tất cả những đường nét cuả
các nguyên âm kép đều cho thấy phần mang âm tiết tính đều có hai đỉnh cao: một
đỉnh cuả nguyên âm thứ nhất, và một đỉnh cao hơn tiếp ngay sau đó là cuả nguyên
âm thứ nhì. Khi đến đỉnh cao thì âm tiết bắt đầu khép lại.

Cho nên
đưa tất cả những tổ hợp hai nguyên âm vào nhóm các tổ hợp nguyên âm kép là một
việc hợp lẽ. Một kết luận khác rút ra từ những thảo luận trên đây, là: dù là
nguyên âm đơn hay nguyên âm kép, nguyên âm ngắn hay dài, các âm vị này chỉ là
một âm vị duy nhất đảm nhận thành phần âm chính trong cấu trúc âm tiết. Kết
luận thứ ba là: vì không có loại âm vị gọi là bán âm trong tiếng Việt nên cũng
không có thành phần gọi là âm đệm trong cấu trúc âm tiết tiếng Việt. Sơ đồ cấu
trúc âm tiết đề nghị ở đây không có đơn vị gọi là âm đệm độc lập, hoặc xem là
tiền âm chính -hiểu như một tính cách cuả âm đầu.
Tóm lại, mỗi âm tiết tiếng Việt gồm có bốn thành phần
âm vị học. Bốn thành phần cuả cấu trúc âm tiết tiếng Việt sẽ có giá trị âm vị
học như nhau. Âm tiết tiếng Việt được sắp xếp theo cấu trúc như sau:
Mỗi thành
phần của âm tiết sẽ do một âm vị đảm
nhận:
- thành phần âm đầu: do một phụ âm
đầu đảm nhận;
- thành phần âm chính làm nên phần hạt nhân của âm tiết, do một nguyên âm đảm nhận;
- thành phần âm cuối do một phụ âm cuối đảm nhận;
- thành phần thanh điệu: do một thanh đảm nhận.
Có thể lập
lại sơ đồ trên dưới dạng công thức như sau, trong đó các thành phần âm tiết
được biểu hiệu bằng các nhánh hình cây và một ô trong sơ đồ hình chữ nhật:
Sơ đồ cấu
trúc âm tiết tiếng Việt trên đây cho thấy bốn thành phần có vai trò chức năng
ngang nhau trong việc xác định âm tiết. Trong bốn âm vị thì ba âm vị: phụ âm
đầu, nguyên âm và phụ âm cuối là những âm vị tuyến tính, nghiã là phát âm tương
đối theo trật tự trước sau, và khi phân tích âm tiết, chúng cũng được phân cách
theo thứ tự cấu thành âm tiết. Ngược lại, thanh là một âm vị phi tuyến tính, vì
nó có mặt ngay lập tức cùng với khi phát ra âm tiết, và do vậy tính cách cuả
thanh là bao trùm toàn thể âm tiết. Sơ đồ cấu trúc âm tiết trong hình 17 dưới
đây là một cách thể hiện khác, có thể cho thấy sự phân biệt hai loại âm vị đảm
nhận thành phần âm tiết.
Âm tiết tiếng Việt không thể
thiếu hai thành phần chính yếu làm nên âm tiết tính cuả nó, là: âm chính, và
thanh điệu. Âm chính có thể gồm ít nhất một nguyên âm, hoặc là một tổ hợp
nguyên âm. Âm tiết "nguyệt" / ŋuiẹt / có
sơ đồ cấu trúc như sau :
Câu:' A ! Mẹ về ! ', khi phát ngôn, cho ba âm
tiết như trong đồ hình dưới đây:
Như thế, trong một âm tiết tiếng
Việt có bốn thành phần âm vị. Đó là một cấu trúc phổ biến và ổn định.
Các kiểu cấu
trúc âm tiết tiếng Việt
Sơ đồ cấu trúc như trình bày ở Hình
17 trên kia được xem là mô hình cấu trúc đầy đủ nhất. Trên thực tế thì một âm
tiết tiếng Việt có thể biểu hiện ra dưới một trong bốn dạng thức:
(a) âm tiết
gồm âm chính + thanh: đây là một dạng âm tiết mở, trong đó âm chính không bị phụ âm cuối cản trở làn hơi;
(b) âm tiết gồm âm chính + âm cuối + thanh: đây là
dạng âm tiết khép, trong đó phụ âm cuối có mặt để khép làn hơi nói ở cuối mỗi
âm tiết.
(c) âm tiết
gồm âm đầu + âm chính + âm cuối + thanh: đây là một dạng âm tiết mở khác
bắt đầu với một phụ âm đầu trước khi phát ra âm chính;
(d) âm tiết gồm âm đầu + âm chính + âm cuối +
thanh: đây là
dạng âm tiết khép với đầy đủ bốn thành phần cuả một âm tiết tiếng Việt.
Trong tất
cả bốn kiểu kết hợp trên đây, âm chính và thanh là thành phần bắt buộc phải có
để âm tiết có âm tiết tính. Tiếng Việt không có dạng âm tiết cấu tạo toàn phụ
âm -dù là phụ âm vang như tiếng Tiệp chẳng hạn.
Theo như
bốn mô thức thể hiện âm tiết tiếng Việt trên đây, chúng ta có thể thấy là, tuỳ
theo vị trí quan sát, âm tiết tiếng Việt
có hai loại cấu trúc lớn.
Bốn dạng
âm tiết tiếng Việt có thể tóm tắt trong mô hình dưới đây:
Nếu xét tiêu chí có hay không có âm đầu, âm
tiết tiếng Việt có thể có hai loại cấu trúc:
I/ Âm tiết không có âm đầu: loại cấu
trúc này bao gồm các dạng cấu trúc (a) và (b) trong hình 19.
II/ Âm tiết có âm đầu: loại cấu trúc này bao gồm các dạng
cấu trúc (c) và (d) trên kia.
Nếu xét
tiêu chí có hay không có âm cuối, âm tiết tiếng Việt lại có thể có hai loại cấu
trúc như sau:
1. Âm tiết mở: là những âm
tiết không có thành phần âm cuối, và bao gồm các dạng (a) và (c) trong hình 19.
2. Âm tiết
khép: là những âm
tiết có thành phần âm cuối, và gồm các dạng cấu trúc (b) và (d) trên kia.
VI
Âm tiết
tiếng Việt không chỉ là sự kết hợp cuả các âm vị tuyến tính, mà còn các yếu tố
phi tuyến tính cũng làm nên nét đặc trưng có ý nghiã cuả âm tiết.
Quan hệ kết
hợp giưã nguyên âm và phụ âm cuối
Hai âm tiết / tan / và / tăn / đều có bốn âm vị giống
nhau. Trong trường hợp này, mối quan hệ kết hợp giưã nguyên âm /A/ với phụ âm
cuối /n/ làm nên sự khác nhau giưã hai âm tiết này.
Quan hệ
giưã nguyên âm và phụ âm cuối có thể là mối quan hệ chặt hay lỏng mà cho âm sắc
khác nhau cho âm tiết. Hai âm tiết lùm
xùm / lù:m sù:m/ (kết hợp lỏng), mà cũng có thể phát âm thành / lùm sùm /
(kết hợp chặt). Cả hai kết hợp đều là kết hợp có ý nghiã trong tiếng Việt, vì
nó tạo hai âm sắc khác nhau cuả hai phương ngữ bắc và nam. Có khi hai kết hợp
tạo nên hai âm tiết khác nghiã hẳn: tám /
tám/ và tắm / tắm / là hai âm tiết
khác hẳn nhau chỉ từ một yếu tố quan hệ kết hợp - là yếu tố phi tuyến tính. Đây
chính là lí do khiến Hoàng & Hoàng (1975) đưa quan hệ kết hợp vào sơ đồ cấu
trúc âm tiết tiếng Việt, xem như là một âm vị điệu tính có ý nghiã, bên cạnh
các âm vị tuyến tính và thanh điệu.
Sơ đồ cấu
trúc âm tiết mà chúng tôi trình bày ở đây không đưa quan hệ này thành một yếu
tố cấu tạo âm tiết, vì lẽ rằng trong nội bộ âm tiết tiếng Việt, có nhiều mối
quan hệ khác nưã: quan hệ giưã thành phần âm đầu và thành phần âm chính, quan
hệ kết hợp trong nội bộ thành phần âm chính, quan hệ giưã phụ âm cuối và thanh.
Những yếu tố phi đoạn này cuả cấu trúc âm tiết có tính cách khác với thanh
điệu, là yếu tố phi đoạn khác có ý nghiã âm vị học nổi bật. Vả chăng, các mối
quan hệ này đều đã được biểu hiện bên cạnh các yếu tố đoạn tính: chẳng hạn quan
hệ chặt giưã nguyên âm và phụ âm cuối thường biểu hiệu qua một nguyên âm ngắn
hay một phụ âm cuối chặt. Âm tiết anh /ăŋk/ khác âm tiết eng / ɛŋk / qua phát âm và qua các đồ vị
khác nhau.
Vì thế sơ
đồ cấu trúc âm tiết bốn thành phần đã chỉ ghi nhận thanh là một yếu tố phi
tuyến tính có ý nghiã ở cấp âm tiết mà thôi.
Vị trí của
thanh điệu trong cấu trúc âm tiết
Cho đến
nay có thể nhận ra hai cách nhìn nhận vai trò cuả thanh điệu trong âm tiết:
hướng thứ nhất xem thanh điệu là một yếu tố ngôn điệu, tạo âm sắc cho âm tiết
nhưng không phải là một thành phần cấu thành âm tiết. Lối nhìn nhận thứ hai xem
thanh điệu là yếu tố phi tuyến tính cuả âm tiết bên cạnh các yếu tố tuyến tính
khác, và như thế thì thanh là một thành phần cấu tạo cuả âm tiết tiếng Việt.
Hai hướng nhìn nhận sẽ dẫn đến hai quan điểm khác nhau về cấu trúc âm tiết.
Quan niệm
rằng thanh là yếu tố ngôn điệu là căn cứ trên tính cách tạo âm sắc cho âm tiết.
Đây là nét đặc trưng cuả âm tiết loại hình ngôn ngữ đa tiết, trong đó các âm vị
tuyến tính kết hợp với nhau. Đó là những kết hợp ổn định và làm nên nét khu
biệt cuả âm tiết này với âm tiết khác. Trong khi đó thì yếu tố ngôn điệu như
trọng âm câu nói có thể thay đổi tuỳ theo ngữ cảnh, cho nên chỉ được xem là yếu
tố tạo âm sắc cho âm tiết mà thôi. So sánh ba lối nhấn trọng âm trong cùng một
câu nói ngắn dưới đây:
Thanh cuả tiếng Việt không thế. Mỗi âm tiết chỉ có thể
mang một thanh ổn định, tạo nên nét khu biệt cuả âm tiết. Thanh là một yếu tố
gắn liền với âm tiết, và không thể tuỳ tiện thay đổi nó mà không làm mất nét
khu biệt cuả nó bên cạnh các âm tiết khác.
Nhìn lại
các sơ đồ cấu trúc âm tiết trên kia, có thể thấy những cố gắng để làm bật lên
tính cách riêng cuả thanh trong âm tiết tiếng Việt, từ chỗ nó chỉ là yếu tố bên
lề, thanh đã được nhìn nhận như một âm vị cuả âm tiết, có chức năng âm vị học
rõ rệt.
Một đặc
trưng khác cuả thanh là nó gắn vào yếu tố âm tiết tính cuả âm tiết, tức là
nguyên âm. Và cũng là một sự kiện có ý nghiã khi hệ thống chữ viết tiếng Việt
hiện nay đánh dấu thanh lên nguyên âm -là đỉnh âm tiết. Tuy vậy, định vị trí
cho nó trong cấu trúc âm tiết lại đang còn là một vấn đề chưa ngã ngũ. Có ít
nhất là hai giải thuyết chính về vai trò thanh điệu trong âm tiết tiếng Việt:
(a) Thanh
là yếu tố cuả âm chính: Nguyễn Bạt Tuỵ (1949:63) cho rằng thanh là yếu tố cuả
âm chính. Ông cho rằng thanh nhiễm vào phần âm chính cuả âm tiết, hơn nưã vào
nguyên âm mạnh cuả âm chính.
(b) Thanh
là yếu tố cuả âm tiết: Lê Văn Lý (1948) cho rằng thanh điệu là yếu tố thuộc về
ngôn điệu, và mỗi âm tiết chỉ có thể mang một thanh như là một yếu tố quyết
định tính cách thoả đáng cuả một âm tiết, vì nó làm nên ý nghiã cuả âm tiết. Lê
Văn Lý cũng là người có đóng góp quan trọng khi ông khẳng định là thanh nhiễm
mạnh trên nguyên âm mạnh trong các tổ hợp nguyên âm kép tăng dần. Do đó khi
viết dấu thanh phải đặt trên nguyên âm mạnh. Tưởng cũng cần ghi nhận là trong
Lê (1968), tác giả lại xem thanh là yếu tố cảm nhiễm vào thành phần âm chính
cuả âm tiết mà thôi.
Các nhà
nghiên cứu khác (Cao 1975, Đoàn 1977, Nguyễn 1978) đều theo chủ trương là thanh
là yếu tố cuả âm tiết chứ không phải chỉ là yếu tố cuả âm chính.
Những cứ
liệu thực nghiệm ngữ âm cho thấy là thanh nhiễm vào phụ âm đầu rất yếu ớt so
với phần còn lại cuả âm tiết. Thanh "nhiễm" mạnh nhất ở đỉnh âm tiết
và còn gắn vào cả âm cuối nưã. Khi phát âm một âm tiết nào đó, chỉ số đo độ cao
cuả phần cuối âm tiết trước khi dứt âm tiết xác nhận điều đó. Điểm này có ý
nghiã hơn khi đối chiếu với những phân tích xác đáng dưạ trên cứ liệu ngữ âm
lịch sử (Haudricourt 1954, in lại trong 1972): thanh cuả tiếng Việt hình thành
khi âm tiết tiếng Việt cổ rụng các phụ âm cuối tắc hầu/ Z /, âm xát / s /, và
âm hầu / h /. Có thể căn cứ trên hiện tượng chuyển đổi phụ âm cuối sang thanh
để tìm hiểu tính nhiễm thanh cuả phụ âm cuối không? Võ Bình
(1982:42-44) đưa ra một giải thuyết về tính nhiễm thanh tăng dần từ
thành phần âm đầu sang âm cuối, như diễn tả trong sơ đồ dưới đây:

Tác giả có
viện dẫn sự hiệp vần trong thơ (với sự biệt loại "vần thông" và
"vần chính") chứng tỏ trật tự tăng dần các kiểu kết hợp các thành tố
đứng cuối âm tiết nếu đi từ "vần ép" đến "vần thông", rồi
"vần chính". Thiết tưởng dưạ trên phụ âm cuối để so sánh giá trị hiệp
vần thi ca để nói về trật tự tăng dần các kiểu kết hợp các thành tố đứng cuối
âm tiết chỉ là một cách nhìn, bởi vì cũng có thể từ hiện tượng này mà nói đến
vai trò chủ đạo cuả âm chính, bởi vì sự hiệp vần trong thi ca phải là sự hoà
phối cuả khuôn vần -nói theo thuật ngữ âm vận học thời cổ điển. Tác giả cũng dưạ trên một lí luận giả định để
cho rằng các phụ âm cuối cổ rụng đi để trở thành thanh, rồi thanh lại tác động
lại các âm vị tuyến tính gần nó (?), và ông cho rằng thanh nhiễm mạnh dần từ
thành phần kết hợp tuyến tính từ đầu đến cuối âm tiết. Tuy vậy, chính tác giả cũng thấy rằng sơ đồ
như trên thích hợp nhất với âm tiết khép; đối với các âm tiết mở thì còn cần
xem xét thêm. Nói cách khác, cách giải thích cuả tác giả về mối quan hệ giưã
thanh và các thành phần âm vị tuyến tính chưa đủ tính thuyết phục về cái trật
tự tăng dần sự kết gắn giưã các thành tố cuối âm tiết.
Tóm lại
vai trò cuả thanh trong âm tiết là một vấn đề cho đến nay chưa được giải quyết
cặn kẽ. Nghiên cứu thực nghiệm ngữ âm có thể là cơ sở để có những kết luận rõ
ràng thêm nưã về chức năng cuả thanh trong kết hợp âm tiết. Là một âm vị tuyến
tính, thanh không chỉ tác động lên một âm vị tuyến tính nào mà là yếu tố tạo âm
sắc chung cho cả âm tiết. Tuy vậy, âm chính vẫn là thành phần âm tiết
"nhiễm" thanh ở mức độ cao nhất. Âm đầu và âm cuối không có đầy đủ âm
lượng để có thể "nhiễm" thanh mạnh hơn âm chính được. Khi kéo dài một
âm tiết, có hiện tượng thanh gắn rõ nét ở âm cuối nếu so với âm đầu. Nhưng âm
lượng ở giai đoạn khép âm tiết đã giảm rất nhiều rồi, khó mà có thể nói đến sự
kết hợp chặt dần ở phiá cuối âm tiết với hàm ý rằng thanh nhiễm mạnh vào âm
cuối. Thanh nhiễm mạnh nhất là ở đỉnh âm tiết, và chỉ ở đỉnh mà thôi. Nếu âm
tiết khép có các phụ âm cuối /p, t, k/ chỉ mang thanh sắc và nặng, là vì những
phụ âm đó phát ra đều kèm theo hiện tượng nghẽn thanh hầu, như hai thanh sắc và
nặng.
VII
Cấu trúc
âm tiết tiếng Việt đã được mô tả theo nhiều quan điểm khác nhau, từ quan điểm
phân lập chỉ chú trọng đến yếu tố tuyến tính đến quan điểm không phân lập, rồi
quan điểm phân lập theo tầng bậc có bao gồm yếu tố điệu tính là thanh. Xem xét
lại các quan điểm mô tả cấu trúc âm tiết, chúng tôi đã chọn mô hình bốn thành
phần đẳng lập.
Sơ đồ cấu
trúc âm tiết tiếng Việt mà chúng tôi đề nghị ở đây bao gồm trước hết là có cả
hai yếu tố đoạn tính và phi đoạn tính, thể hiện sự phân nhánh trong sơ đồ hình
cây. Trong sơ đồ hình chữ nhật, yếu tố phi tuyến tính được trình bày ở một ô
riêng biệt đặt trên hoặc dưới tổ hợp tuyến tính:


Trong sơ đồ cấu trúc âm tiết tiếng Việt trên có tối đa
ba thành phần âm vị tuyến tính: âm đầu,
âm chính và âm cuối. Vị trí cuả các âm vị được sắp xếp theo thứ tự chúng xuất
hiện trong cấu trúc âm tiết. Sắp xếp theo hình cây như thế thì chưa làm bật lên
được vai trò cuả âm chính trong cấu trúc âm tiết. Sơ đồ cấu trúc hình chữ nhật
thể hiện sự kiện này rõ hơn, khi đồ vị thanh được đặt trong một khung trải dài
suốt trật tự các âm vị tuyến tính, ngay vị trí đồ vị nguyên âm.
Mô hình âm
tiết đề nghị ở đây thể hiện được tính hệ thống nhất quán cuả cấu trúc âm tiết
tiếng Việt, và đồng thời tỏ ra đơn giản hơn những mô hình tầng bậc trước đây.
Cũng là điều thú vị khi nhận ra rằng khoa học thật ra cũng không phải là đối
lập với giản dị.
Đoàn Xuân Kiên
tập san Hợp Lưu số 48 (th. 8 & 9/1999), tr. 22-54.
Thư mục