Saturday, 6 December 2025

 

Nguyễn Huy Lượng bình văn

Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du

Đoàn Xuân Kiên

 




 

Suốt thời trai tráng, Nguyễn Huy Lượng gắn bó với sinh hoạt văn chương nghệ thuât Thăng Long. Gia phả của dòng họ Nguyễn Gia (bên ngoại) và Nguyễn Huy (bên nội) đều ghi nhận những cuộc đối đáp thơ văn trong vòng bạn bè. Trong số những người có xướng họa thơ văn cùng ông có những người nổi tiếng một thời ở Thăng Long như Nguyễn Gia Thiều, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Hàn, Trần Bá Lãm, Bùi Huy Bích… Ngày nay sách vở tài liệu ghi chép lại những hoạt động của những tao đàn văn chương Thăng Long thời ấy không còn lại bao nhiêu. Tuy vậy, dõi trong những ghi chép trong các tập thơ của những nhà nho đất Thăng Long trong khoảng cuối thế kỉ XVIII thì Nguyễn Huy Lượng được ghi nhận là một trong những nhà văn tiêu biểu cho một “phái” trong số mười hai “phái” văn học đương thời (1).

 Một trong những sinh hoạt văn học mà Nguyễn Huy Lượng có tham dự tận tình, và được ghi chép lại là lần ông bình văn Nguyễn Du. Sự kiện bình văn này lần đầu thấy ghi chép trong bài “Lệ Ngôn” của Kiều Oánh Mậu đặt ở đầu tập tân khắc Đoạn Trường Tân Thanh (1902). Trong bài Lệ Ngôn này, Kiều Oánh Mậu đã nhắc đi nhắc lại ba lần sự kiện có hai nhà văn nho gia sống cùng thời với Nguyễn Du đã bình văn Truyện Kiều, là Vũ Trinh và Nguyễn Lượng:

 “1. Bản Đoạn trường tân thanh này do cụ Nguyễn Du, tham tri bộ Lễ đầu triều ta, dựa theo bản Thanh Tâm Tài Nhân ngoại thư của Thánh Thán (Trung Quốc) mà làm ra. Cụ đã diễn dịch một cách thanh nhã, đẹp đẽ, người đọc lấy làm khoái trá so với bản dịch của Trung Quốc trội hơn một bậc. Những danh nhân đồng thời với cụ như ông Vũ Trinh, hiệu Liên Trì, ông Nguyễn Lượng, hiệu Châu Giang (2), có phê bình, ông Phạm Quý Thích làng Hoa Đường có đề từ. Kế đó lại có ông Nguyễn Văn Thắng làm ra bản án trong đó có những cái hay, cái quý đều được phô bày rõ ràng để cống hiến thêm cho người đọc. Ngoài ra còn có nhiều bài đề vịnh khác, lời lảm nhảm vô vị, không cần nhắc đến.

2- … Năm trước bạn thân tôi là ông  Đình nguyên họ Đào ở Cẩm Giang đem ở Kinh về một bản trong đó có lời phê bình của Nguyễn tiên sinh và Vũ tiên sinh, chữ viết ngay ngắn, lời văn sáng sủa, duy chỗ nào gặp chữ huý nhà vua thời lại thay đi làm sai vẻ chân chính của bản gốc…

9- Những lời phê bình của Nguyễn tiên sinh (Nguyễn Lượng) và Vũ tiên sinh (Vũ Trinh) tôi chỉ trích lấy những câu hay để nêu lên sự nhận xét sáng suốt của mọi người...”  (3)

 Trong bản tân khắc năm 1902 ấy, ông Kiều Oánh Mậu chỉ chọn ra một vài lời bình của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng mà thôi, nhưng đã cho ta biết vắn tắt về lai lịch hai nhà bình văn được ghi ở sau trang in nhan đề sách như sau:

 - “Nguyên Hình Bộ Hữu Tham Tri đắc cách, Liên Trì Ngư Giả Vũ Trinh mặc bình” (Nguyên Hữu Tham Tri Bộ Hình, Kiên Trì ngư Giả Vũ Trinh phê mực đen)

- “Nguyên Thiên Trường Tri Phủ mông tặng Hàn Lâm Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng chu bình” (Nguyên Tri phủ Thiên Trường, được ban tặng Hàn Lâm, Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng, phê mực son).

 Trường hợp Vũ Trinh thì dễ dàng dò tìm ra tiểu sử, vì tên tuổi ông được lưu lại khá tường tận trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Sơ Tập, Quyển XX. Trường hợp Nguyễn Lượng có phần mơ hồ, khó tìm thấy ở đâu. Đã thế, ông Kiều còn cho khắc sai tên hiệu của Nguyễn Lượng: ở đầu bản khắc in, soạn già ghi rõ như trên, nhưng trong bài Lệ Ngôn, ông lại ghi tên hiệu của Nguyễn Lượng là Châu Giang (!) Gần đây, ông Đặng Cao Ruyên lại cho một thông tin khác: “Nguyễn Lượng (1768-1817), hiệu là Châu Sơn tiều lữ, còn có hiệt là Châu Giang, sau này sẽ cùng với Vũ Trinh, là hai người đầu tiên bình Kiều” (4). Chúng tôi chưa tìm thấy chứng liệu nào xác nhận năm sinh năm mất của Nguyễn Lượng như thế. Chúng tôi ngờ rằng ông chỉ chép theo Kiều Oánh Mậu và Nguyễn Thạch Giang, kể cả sự nhầm lẫn giữa Châu Sơn và Châu Giang? Chúng tôi lần theo manh mối “ông là tri phủ Thiên Trường và sống cùng thời với Vũ Trinh” và kiểm chứng với Đại Nam Thực Lục Chính Biên (5) thì có phần chắc là Nguyễn Lượng chính là Nguyễn Huy Lượng, người đã giữ chức Tri phủ Thiên Trường (Sơn Nam Hạ), khi chết trận (1807) được truy tặng Hàn Lâm.

 Trong số 61 lời bình lượm lặt từ ba bản Truyện Kiều có gốc gác sao chép từ Huế (bản khắc in  của Kiều Oánh Mậu, hai bản thủ sao của Ưng Gia và Nguyễn Hữu Lập), chúng tôi lọc riêng ra 22 lời “chu bình” của Nguyễn Lượng để khảo sát. (6).

 Cũng như Vũ Trinh, Nguyễn Lượng chọn lối bình văn khi đọc từng câu từng đoạn văn Kiều, từ những câu mào đầu đến những câu cuối của bản cảo khi gia đình đoàn viên và Kim Kiều tái hợp. Chỗ nào thích thú, ông ghi lại cảm nhận cá nhân khi đọc những câu những đoạn văn ấy.

 Đọc mấy câu mào đầu (câu 1-6), cả hai nhà bình văn đều chú ý đến chủ đích của tác gia Truyện Kiều. Nguyễn Lượng phê như sau: “Khóc thương cho ngườI đời xưa để lưu tặng cho người đời sau. Đó chính là lối viết của Thánh Thán vậy.” (7) Người bình văn ghi nhận là văn chương có nói về nỗi đoạn trường của người xưa cũng là cách thác ngụ tâm tình của mình gửi lại cho người đời sau như một sự liên cảm liên thông. Ông nêu lên một quan điểm của một tên tuổi trong làng văn cổ điển Trung Hoa như một mẫu mực cho lối bình văn không theo truyền thống đương thời.

 Đọc đến đoạn chị em Kiều du xuân tiết Thanh Minh, Nguyễn Lượng hạ bút tán thán qua vài lời gọn ghẽ: “Tả cảnh sắc Thanh Minh như tranh vẽ”. Quả như thế, bức tranh “du thanh minh” ở đầu Truyện Kiều  được thể hiện qua những lời thơ lục bát mượt mà: “Ngày xuân con én đưa thoi/Thiều quang chin chục đã ngoài sáu mươi/Cỏ non xanh tận chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa/Thanh minh trong tiết tang ba/Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh/Gần xa nô nức yến anh/Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân/Dập dìu tài tử gia nhân/Ngựa xe như nước áo quần như nen/Ngổn ngang gò đống kéo lên/Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay” (Kiều, c. 39-52). Bức tranh “du Thanh minh”  có thể gọi là quang cảnh tươi sáng hồn hậu hiếm hoi trong toàn bộ tác phẩm. Người bình văn hẳn là nhận ra ngay cảnh sắc tươi đẹp như tranh, và cũng sớm nhận ra rằng bức tranh sớm chuyển màu khi mấy chị em dan tay ra về, “Bước dần theo ngọn tiểu khê/Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh/Nao nao dòng nước uốn quanh…” Cảnh sắc chuyển sang sắc màu có phần lạnh. Ông phê rằng: “Gió lạnh trăng mờ khiến người cũng buồn theo”. Nhà bình văn chủ ý nói lên cảm nhận của mình khi đọc văn Kiều về mặt thẩm mĩ, về nghệ thuật diễn đạt, thể hiện chú ý của tác gia trên từng lời văn tự sự mà ông đương đọc.

 Trong đoạn Kiều du Thanh Minh, tác giả cho Vương Quan kể vắn tắt về cuộc đời của người ca kĩ Đạm Tiên, Nguyễn Lượng phê như sau: “Cuộc đời của Đạm Tiên được Vương Quan tả lại bằng mấy câu thật là ai oán khiến ai cũng không cầm lòng được”. Lời phê ngắn gọn nhưng gói trong đó niềm cảm khái về một số phận bất hạnh, một bi kịch nhân sinh. Đấy là những dòng chữ ghi lại cảm nhận của người đọc, những hiệu ứng trực tiếp mà lời văn Nguyễn Du truyền cảm xúc cho người bình văn. Ta cảm nhận sự liên cảm cụ thể của người bình với lời tự sự của tác giả Truyện Kiều.  Sự liên cảm ấy còn có thể thấy rõ thêm khi ông đọc đến đoạn người khách viễn phương đến quá trễ, không được gặp Đạm Tiên. Nguyễn Lượng đã hạ bút “phê”: “Đoạn trường tân thanh!”. Vài lời ngắn gọn nhưng sắc cạnh cho ta hiểu được rung động của nhà phê bình khi nhận ra tiếng đoạn trường được báo trước qua số phận hẩm hiu của người ca kĩ xấu số nằm dưới nấm mộ ven đường trong buổi du xuân của mấy chị em. Sự rung động đầy cảm hứng của người bình văn cũng cho thấy ông nhìn thấu suốt được chuyện người xưa và chuyện người nay trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh có sự liền kề, gắn bó. Đọc văn Kiều đến đây, ông đã nhìn ra chủ đề của toàn truyện chính là một tiếng đoạn trường mới, đúng như nhan đề của truyện cho thấy. Chưa hết. Khi đọc đến đoạn Thúy Kiều nghe cậu em Vương Quan kể lại chuyện đời thương tâm của Đạm Tiên, Thúy Kiều đã cảm xúc bồi hồi dấy lên niềm thương cảm người xưa và không khỏi chạnh lòng bâng khuâng nghĩ đến mình. Nhà bình văn đã khen tài kể chuyện mà làm bật lên cá tính của nhân vật Kiều qua ngòi bút của Nguyễn Du bằng một câu ngắn khác: “Người (Vương Quan) kể thì chỉ lưu tâm đến chuyện kể thôi, nhưng người nghe (Thúy Kiều) thì có ý (xúc động)”. Để kết lại cảnh Thúy Kiều thắp hương khấn vái trước mộ Đạm Tiên, ngòi bút Nguyễn Du lại cho nhà bình văn một niềm cảm mến qua một lời bình: “Tả cảnh sắc bên mộ lúc chiều tà lời lời sinh động”. Hẳn là Nguyễn Lượng sẵn bút phê màu son trong tay đã không ngần ngại khuyên son mười bốn chữ trong câu kết ấy: “Một vùng cỏ áy bóng tà/Gió hiu hiu thổi một và ngọn lau”. Nói cách khác, theo nhà bình văn thì nghệ thuật tự sự của Nguyễn Du lôi cuốn là nhờ gắn kết giữa cảnh và tình, giữa sự kiện và yếu tố gây cảm xúc. Lời tự sự mà ăm ắp tình cảm người viết văn, như thể tác giả cũng là một nhân vật của dòng câu chuyện kể mà ông được đọc.

 Theo dõi dòng bình văn của Nguyễn Lượng, có thể thấy khuynh hướng thưởng ngoạn của ông đặc biệt thích thú với những đoạn văn có sức lôi cuốn của hư ảo. Hiện thực huyền ảo trong đoạn văn Kiều kể chuyện xướng họa thơ văn giữa Kiều và hồn ma Đạm Tiên đặc biệt thu hút sự ngưỡng mộ văn chương của tác giả. Nguyễn Lượng đã phê như sau: “Trang Sinh hóa bướm đấy a? Bướm hóa làm Trang Sinh đấy a? Kể chuyện nửa thực nửa hư thật kì diệu!”. Sự khoái hoạt với lối văn hiện thực kì ảo còn được Nguyễn Lượng dành cho một lời phê khác nữa dành cho đoạn kể chuyện Kim Trọng và Thúy Kiều “vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”, giao ước thề bồi và Kiều đàn lần thứ nhất trong truyện, mà qua ngòi bút Nguyễn Du thì tiếng đàn dào dạt cảm xúc, “Rằng hay thì thật là hay/Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!” Đoạn văn ấy kết thúc với cảnh hai người tình trẻ dở tỉnh dở say trong men tình. Và Nguyễn Lượng khuyên son cho đoạn văn ấy bằng một lời tán thán pha nhiều chất hóm hỉnh như có sự đồng tình: “Người đẹp dưới đèn, tiếng đàn khêu gợi, làm sao cầm lòng cho được?”. Người bình văn cũng không giấu niềm cảm phục khi tác giả Truyện Kiều đã chuyển cảnh rất nhanh nhạy từ cảnh tượng đắm say như mộng trở về với hiện thực nhân gian. Ông hạ bút  phê đoạn 501-504: “Tình và cảnh biến hóa thật sinh động!”.

 Cũng qua đoạn văn đầy chất đắm say của hai người tình trẻ này, Thúy Kiều đã bộc lộ cá tính kiên trinh của mình qua một lời thưa cùng chàng Kim khi chàng đã “trong âu yếm có chiều lả lơi”: “Đã cho vào bậc bố kinh/Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu/Ra tuồng trên bộc trong dâu/Thì con người ấy ai cầu làm chi”. Nhà bình văn đã phê bên cạnh lời Kiều: “Trinh là bản lĩnh một đời của Thúy Kiều.” Ông sẽ còn trở lại chủ đề này hơn một lần, vì chính ông cũng nhận ra đây là những gì tác giả Truyện Kiều đã chủ tâm xây dưng cái hồn cốt cho nhân vật trung tâm của mình. Nói cách khác, Nguyễn Lượng khen tặng nét đẹp của văn chương Truyện Kiều ở khía cạnh hô-ứng mà người làm văn luôn phải chú tâm trong dọc dài câu chuyện kể của mình.

 Không lâu sau đoạn thề bồi thắm thiết, cốt truyện đã chuyển sang nẻo bi kịch. Nhà bình văn theo dõi tâm lí nhân vật Thúy Kiều được phát triển theo dòng chảy của câu chuyện kể, đến khi Kiều trối lại cùng cha về phận bạc của mình: “Lượng trên dù chẳng quyết tình/Gió mây âu hẳn tan tành nước non/Thà rằng liều một thân con/Hoa dù rã cánh, là còn xanh cây/Phận sao đành vậy cũng vầy/Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh”, ông hạ bút phê mấy dòng tràn đầy sự thương cảm: “Đến chỗ đường cùng thì chẳng thể ngồi yên, phải thốt lên lời cùng quẫn vậy.”

 Sau khi đã ngã giá, và sau khi đã tâm tình với cha mẹ và các em như thể những lời trối, Kiều ngồi lặng yên trong phòng ngẫm lại tình đầu dở dang mà đau xót cho mình và cho người tình. Người em gái Thúy Vân lúc ấy chợt tỉnh giấc nồng: “Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân/Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han/Cơ trời dâu bể đa đoan/Một nhà để chị riêng oan một mình/Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh/Nỗi riêng còn vướng mối tình chi đây?” (Kiều, c. 715-720). Nhà bình văn hạ ngay một lời phê khá nặng: “Cha phải tù, chị phải bán mình, thế mà chỉ lo ngủ say. Hai lần Thuý Vân xuất hiện đã thấy thân phận khác với chị rồi.” Ông chỉ phê ở lần thứ hai này thôi, nhưng ông đã để ý sự vô cảm của người em gái khi cô nhìn thấy chị thắp hương khấn vái trước mồ Đạm Tiên: “Vân rằng chị cũng nực cười/Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!” (KIều, c. 105-106). Cho dù ông không nặng lời như Vũ Trinh mà cho cô Vân là thứ xuẩn ngốc, ông vẫn thấy “phiền lòng” vì sự vô tâm, lãnh cảm của người em trước những tình huống không bình thường, đòi hỏi những người thân yêu phải thể hiện sự đồng cảm, gắn bó và sẻ chia nỗi đau cơn buồn…

 Nguyễn Lượng chỉ quan tâm đến cô em chừng ấy thôi, nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông chú ý đến nghệ thuật tự sư, đến nhịp đập con tim của nhân vật tự sự chứ không màng đến những gì ngoài văn chương.  . Ông dành trọn sự chú ý vào chị Kiều, và những ứng biến của cô trước những biến động không ngừng của bước đường bềnh bồng từ khi sẩy chân. Theo dõi Thúy Kiều trên bước phiêu linh của số phận đoạn trường, khi Kiều vừa mới sa vào vũng lầy của Mã Giám Sinh và ngao ngán cho số phận, toan bài quyên sinh nhưng rồi phải cân nhắc lại vì lẽ sống còn: “Giận duyên tủi phận bời bời/Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh/Nghĩ đi nghĩ lại một mình/Một mình thì chớ, hai tình nữa sao?/Sau dầu sinh sự thế nào/Truy nguyên chẳng kẻo luỵ vào song thân/Trót liều âu phải gắng dần/Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi!" (Kiều, c. 857-864), nhà bình văn cho rằng tuy Kiều đã chìm rơi xuống đáy vực, mà trong bi kịch người con gái trong trắng ấy vẫn tỏ ra có bản lĩnh để cân nhắc cách ứng xử: “Thuý Kiều tuy đã bị thất thân nhưng tấm lòng trinh thì ngờ rằng chưa từng mất. Có thể thấy như thế qua những đoạn văn như thế này.”

 Bi kịch của Thúy Kiều chỉ mới ở vòng đầu mà đã trôi dạt từ Mã Giám Sinh đến Sở Khanh, để rồi rơi lại vào tay Tú Bà, thì Kiều đã thốt lên lời bi ai: “Thân lươn bao quản lấm đầu/Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.” (câu 1149-1152). Nhà phê bình không ngăn nổi nỗi bức xúc, bèn phê ngay cạnh đó để tỏ bày sự cảm thông với người con gái trong trắng mà đương bị dồn vào bước đường cùng: “Đến sự trinh bạch mà cũng có khi phải xin hối, xin chừa thì trò đời nghĩ cũng đáng bật cười thật!“.Nghe ra tiếng cười cay đắng mỉa mai trước tình huống bi kịch.

 Khi được Thúc Sinh cứu thoát khỏi lầu xanh, Thúy Kiều lại phải đối mặt với người vợ cả thật khôn ngoan nhưng cũng thật đáo để. Qua mấy nét miêu tả nhân vật này, cá tính của Hoạn Thư đã nổi lên với đầy đủ dáng vẻ kẻ cả: “Duyên đằng sớm thuận gió đưa/Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày/Ở ăn thì nết cũng hay/Nói điều trói buộc là tay cũng già.”. Nguyễn Lượng phê rằng: “Thật đúng là một bậc bề trên đảm đương việc nhà.”. Ông không đi xa như Vũ Trinh để xem hai người phụ nữ ở hai vị trí, hoàn cảnh khác nhau nhưng có thể là tri kỉ của nhau được, xứng tầm với nhau trong cuộc sống bình thường. Tuy kiệm lời, Nguyễn Lượng cũng nhận ra đây là mẫu mực một người phụ nữ quán xuyến đảm đang.

 Khi đọc đến đoạn Kiều báo ân báo oán, (câu 2323-2392), nhà bình văn Nguyễn Lượng tỏ ra bất nhẫn với những việc báo ân và trả thù mà Kiều dành cho những người đã liên quan đến suốt hành trình thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Ông hạ một lời phê rất dài: “Không giết Hoạn Thư mà giết mẹ Hoạn Thư để thỏa lòng căm tức, thế chẳng là nhẫn tâm lắm ru! Vì thế mà tác giả cố ý giấu sự ấy đi chăng? Riêng ta, ta bảo Thúc Kì Tâm (tức Thúc Sinh) quả đáng giết, còn Mã Giám Sinh thật không đáng giết chút nào. Xin các người có thâm tình trong thiên hạ thử nghĩ mà xem! Có người nói: vì chàng Kim mà giết họ Mã thì cũng phải đi. Nhưng thế thì ông viên ngoại thì sao? Cho nên đem Kiều mà liệt vào liệt vào truyện hiệp kĩ (người kĩ nữ có nghĩa hiệp) thì thật cũng có lí vậy. Đây là một việc ở giữa trời đất, không nên thiếu, mà cũng là một việc hết thảy không nên thế cả. Nếu trên mặt đất này, khắp đâu cũng đều như thế cả, thì những sự than oán kể sao cho xiết!”. Lời phê có phần nghiêm khắc, phản ảnh rõ tấm lòng của một người giàu lòng nhân ái, cho  nên đọc đến đoạn văn phơi bày cảnh tượng máu đổ thịt rơi trong trận trả ơn báo oán, nhà phê bình cho là tàn nhẫn không đáng có ở một người phụ nữ hiếu nghĩa đủ đường, có trái tim yêu thương rộng mở từ tuổi mới lớn. Phê bình tính cách quá tay của nhân vật trong truyện thật ra là phê bình sự vênh lệch giữa cá tính nhân vật và những ứng xử cụ thể trong một tình hương cụ thể. Và đó chỉ là lần duy nhất nhà phê bình tỏ ra không tán dương lối xây dựng cốt truyện của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh mà ông đã dành nhiều sự ái mộ trong suốt hơn hai mươi lần hạ bút “châu phê”.

 Quả thế. Khi đọc đến đoạn “Một nhà đoàn viên“ (câu 3009-3018), nhà bình văn lại một lần nữa khoái hoạt với một hiện thực huyền ảo khác. Ông hạ lời phê ngắn gọn: “Thật như đứng trước cảnh chiêm bao.” Và khi tác giả cho Kim Trọng và Thúy Kiều tâm tình với nhau trong đêm “động phòng dìu dặt chén mồi” (câu 3135-3162), nhà bình văn không quên nhắc lại bút pháp hô ứng của văn chương Nguyễn Du khi nhắc lại một lần nữa tấm lòng kiên trinh của người tình Thúy Kiều dành cho cho người tình một đời của nàng: “Đọc đến đây mới bảo được rằng Kiều giữ được lòng trinh, nhưng cái trinh ấy có thể thấy được từ khi nàng còn lưu lạc chốn thanh lâu. Bây giờ ở vào cảnh đắc ý thì nàng nói thế thôi để tỏ lòng trinh của mình. Tuy nhiên nói rằng Kiều trinh thì cũng không phải có nhiều người được thế, hoặc bảo rằng các bậc vương tôn công tử quen thấy ngày trước khen chê mà không để lọt vào mắt.

 Nguyễn Lượng cũng dành sự khen tặng cho đoạn văn kì ảo cuối trong Truyện Kiều, khi hai người tình trăm năm lại được sum vầy trong một cảnh tượng thật mà như mơ, giữa đời trần mà hư ảo như tiên cảnh. Đó là khi hai người tình cũ lại hợp hoan sau mười lăm năm xa cách với lắm nỗi đoạn trường chồng chất trong đời nàng. Ông không thể không vinh danh một lần nữa tấm lòng kiên trinh khác thường của Thúy Kiều, làm nên giá ngọc của nàng (câu 3175-3190). Nguyễn Lượng phê rằng: “Hai người lại vào trong màn vui vầy hoan lạc, chỉ không nói đến chuyện mây mưa. Thuý Kiều đã giữ được toàn tiết. Văn chương như thế thật là ảo diệu.”.Trong nguyên văn lời phê bằng chữ Hán, ông dùng tiếng “văn chương chi tam muội”, một cách diễn đạt ý tưởng thật hàm súc và phản ảnh sự trân trọng của ông đối với sự ảo diệu của văn chương: văn không phải là trò chơi chữ nghĩa, mà nó có thể chế tác năng lượng thăng hoa cuộc sống của con người, nhờ thế mà người ta vượt lên khỏi những triền phọc đốn tỏa của cuộc đời mà tìm được một niềm hạnh phúc trong chữ nghĩa. .

 Điểm qua những lời bình của Nguyễn Huy Lượng dành cho bản cảo Truyện Kiều, người đọc ngày hôm nay có thể thấy quan điểm bình văn của ông khá rõ: ông không vin vào những thuyết lí như văn dĩ tải đạo, hưng ư thi, lập ư lễ, thành ư nhạc… của trường phái văn chương chi hồ giả dã. Ông thưởng ngoạn văn chương của bạn văn là để rung động với những lời văn hay, ý đẹp về con người và cuộc đời thực chung quanh. Ông cũng quý trọng tấm lòng yêu thương con người để dùng văn như một cách giải phóng con người khỏi những nhàm chán tầm thường. Suốt hơn hai mươi lần bình văn, không có lời “phê” cao đạo nào nhân danh những tín điều Nho học vẫn đang còn phổ biến ở thời đại ông.

 Có thể nói là lối đọc văn của Nguyễn Lượng thiên về ghi lại những cảm xúc, cảm nhận mà câu hay đoạn văn khơi động trong nội tâm người đọc. Lối đọc văn duy cảm, duy mĩ ấy khác hẳn lối bình văn thường thấy ở thời đại ông. Lối bình văn này cũng không giống với truyền thống bình văn xưa, thường chỉ là những ý tường phê bình vo tròn, khá tổng quát. Mộng Liên Đường Chủ Nhân sống sau hai ông vài chục năm, đã từng cảm nhận những ý vị của nghệ thuật tả cảnh, tả tình trong Truyện Kiều, nhưng chỉ có những lời bình khá khái quát như sau: “Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy. Bèn vui mà viết bài tựa này.” (8) Ngày nay đọc đến lời bình của ông trong bài Tựa ấy, người đọc có thể cũng hiểu là người bình văn đã từng rung động trước những lời thơ lục bát nhẹ nhàng mà tươi sáng, vì người bình đã nói rằng tác giả “tả cảnh đã hệt”! Cũng đọc đoạn văn Kiều du Thanh Minh ấy, hơn trăm năm sau, Chu Mạnh Trinh đã chỉ mượn bức tranh du xuân trong Truyện Kiều để viết một bài thất ngôn bát cú, trong đó ông vẽ lại nét đẹp của bức tranh bằng lời thơ thất ngôn của mình:  Mùa xuân ai khéo vẽ nên tranh/Nô nức đua nhau hội đạp thanh/Phận bạc ngậm ngùi người chín suối/Duyên nay dun dủi khách ba sinh/Dãy hoa nép mặt gương lồng bóng/Ngàn liễu rung cương sóng gợn tình/Man mác vì đâu thêm ngán nỗi !/Đường về chiêng đã gác chênh chênh.(9) 

Người đọc ông Chu chỉ biết rằng ông cũng đã cảm xúc khi đọc đến đoạn Kiều “du Thanh Minh” của Nguyễn Du, nhưng ông cảm thế nào, không thấy ông nói cụ thể. Đấy cũng là điển hình cho kiểu bình văn bằng lối đề vịnh cuả thời Nho học.

 Trong cả thảy hơn hai mươi lời bình, Nguyễn Lượng thiên hướng về ba mảng chính: nghệ thuật tự sự của tác giả Truyện Kiều, nghệ thuật phát triển tâm lí nhân vật trong truyện, kĩ thuật xây dựng câu chuyện để làm nổi lên chủ đề câu chuyện mà Nguyễn Du muốn gửi đến người đọc. Đây sẽ là những cứ liệu cụ thể về một phép đọc văn thời cận đại, khi nhà phê bình tháo bỏ những lề luật của văn dĩ tải đạo mà xem văn chương là mảnh đất riêng để nhà văn và người đọc trao đổi tâm tình và khám phá những ý nghĩa ẩn khuất sau lời văn của tác giả một văn bản. Một quan điểm phê bình văn học như thế còn khá xa lạ với đương thời. Cho nên cũng không lạ là dưới mắt một nhà nho, những lời bình kia cũng “xoàng” thôi, không cao vời trên tầng đạo lí, không có lời bình bắt đầu với những câu kinh điển “Tử viết…” Điển hình cho góc nhìn Nho gia như thế là lời chê bai của Chiêm Vân Thị trong bài Phàm Lệ khi làm chuyết bản cho Thúy Kiều Truyện Tường Chú: “Kinh bản có lời phê bình của họ Vũ và họ Nguyễn. Có người cho hai nhà này là bậc danh nhân đồng thời với Hồng Sơn (Nguyễn Du). Song xét những lời phê bình đó, đều thấp kém quê mùa. Có lẽ là một tay xoàng xĩnh nào mượn tiếng đó thôi, chứ không phải là danh nhân” (tr. 55) (Hựu Kinh bản tái hữu Vũ Nguyễn nhị gia phê bình. Hoặc xưng nhị gia thị Hồng Sơn thời danh nhân. Nhiên thị kì bình ngữ đê lậu ô bỉ, đương thị tục thủ ngụy thác, phi chân danh nhân dã) (tr. 51)(10). Chiêm Vân Thị thì bình Kiều thế nào? Ngay đầu bài Phàm Lệ, ông nhận xét như sau về Truyện Thúy Kiều: “Bản Thúy Kiều truyện là thủ bút của Hồng Sơn tiên sinh. Nói về văn chương: Ý vị nồng nàn mà sâu xa, khí tượng cao siêu mà thanh quý, lời văn đã tươi đẹp lại hào hoa, nét bút đã tinh tường lại hồn nhã. Đến sự lựa lời đãi ý, không một lời một chữ nào là không li kì cổ quái. Đó là đặc sắc cuả bản truyện vậy” (tr. 54) (Thúy Kiều Truyện nãi Hồng Sơn thủ bút, kì văn dã. Ý vị du hậu nhi thâm tràng, khí tượng cao hoa nhi thanh quý, từ công lệ nhi hào dậy, bút tinh mật nhi hồn nhã. Chí vu tuyển từ mệnh ý, nhất tự nhất ngữ, vô bất quang quái li kì! Thử bản truyện chi đặc sắc dã. (tr. 50) (10). Lời tán tụng như thế thật cũng không thể cao hơn, nhưng chúng ta không thấy những thuyết minh cụ thể chứng thực lời tán tụng là không phải là những lời khen thậm xưng hoặc sáo rỗng. Đó chính là phong cách bình văn đã thành truyền thống thời xưa.

Ngoài giá trị văn học của những lời bình văn mà hai nhà văn cùng thời với Nguyễn Du để lại, ngày nay những lời bình của hai nhà còn hé cho chúng ta nhiều ý nghĩa bất ngờ mà suốt hơn trăm năm qua các nhà nghiên cứu văn học thường bỏ qua.

 Trước hết, cần nhắc lại thêm lần nữa cũng không là thừa, hai nhà văn sống cùng thời với Nguyễn Du và đã được đọc văn Kiều từ câu đầu cho đến những câu cuối cùng của cảo bản của chính tác giả. Nếu quả đúng như lời kể của cụ Nguyễn Đình Ngân, người coi sóc Ngự tiền thư viên (thư viện hoàng gia) ở Huế  thời Bảo Đại, thì đến 1945, bó bản thảo mà gia đình Nguyễn Du trao cho vua Minh Mạng hãy còn trong thư viện. Hẳn là trong đó có cả thủ bản có lời mặc bình và chu bình của hai nhà văn Vũ, Nguyễn. Và cũng hẳn nhiên là từ thủ bản này mới nảy ra những bản sao chép của những hoàng tử, tôn công, những giám sinh trường quốc học… mà còn lưu lại những bản sao chép ấy cho đên ngày nay. Một bản chép tại Kinh đã được một công tử tặng cho cụ Đào Nguyên Phổ và được Kiều Oánh Mậu khắc in ở Hà Nội năm 1902 với lời ghi chú rõ ràng về những lời chu bình và mặc bình của hai nhà bình văn Vũ, Nguyễn.(11)

 Vòng luân chuyển của cảo bản Truyện Kiều từ gia tàng nhà họ Nguyễn đến thư viện hoàng gia đã cho ta biết một thông tin quan trọng: Truyện Kiều viết xong từ khá sớm. Hai nhà bình văn phải được cơ hội đọc và bình bản cảo rất sớm, muộn nhất cũng là trước năm 1807, năm Nguyễn Huy Lượng qua đời. Không phải như lời ghi trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyên, rằng sau khi đi sứ (năm 1813) về, Nguyễn Du có Truyện Kiều “hành thế” (12). Dò theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, chúng ta được biết Vũ Trinh còn là anh rể của tác giả Truyện Kiều. Vợ ông là người con gái lớn của bà thứ thất Trần Thị Tần, cũng là mẹ ruột Nguyễn Du (13). Tình thân anh em trong nhà trong họ cho ông điều kiện đọc văn của cậu em vợ vừa hoàn tất ở tuổi 30 và đã sớm bạc đầu vì nợ văn chương.

Nhìn lại khung cảnh văn học Thăng Long những năm cuối triều Lê-Trịnh, chúng ta cũng đã biết những khuôn mặt nổi trội của văn học Thăng Long những năm tháng ấy. Phường Bích Câu trong những năm cuối thế kỉ XVIII đã từng là nơi giao du tụ hội của những người tuổi trẻ thừa tiếp hạt giống chữ nghĩa của thế hệ cha anh họ (Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, Tư đồ Nguyễn Nghiễm, Hành Tham Tụng Bùi Huy Bích, Tể tướng Nguyễn Khản…). Chuyện bình văn của nhau đã là một sinh hoạt bình thường của những chàng Giám sinh hay những người nho sĩ trẻ tuổi lúc bấy giờ. Thời điểm thuận lợi nhất cho những tao đàn văn nghệ Thăng Long chính là những năm kinh thành còn tương đối yên hàn trước khi những xáo trộn kinh thiên động địa nổ ra từ sau năm 1786. Sau dấu mốc tàn khốc đó, mà Nguyễn Du đã ghi rõ ở những dòng đầu Truyện Kiều: Trải quan một cuộc bể dâu/Những điều trông thấy đã đau đớn lòng”, trí thức Thăng Long cũng phân tán như toàn xã hội Bắc hà nói riêng và toàn cõi Đại Việt nói chung rơi xuống cảnh điêu tàn trong bài tính tranh bá đồ vương của thời đại. Thời cuộc bão giông sau đó không ít thì nhiều có tác động đến giấc mộng văn chương của cậu Chiêu Bảy trong gia đình Xuân quận công Nguyễn Nghiễm. Nhà thơ trẻ Nguyễn Du có lúc đã ngậm ngùi cho số phận văn chương của ông:  Mệnh bạc nhưng còn duyên với sách vở/Hồn tàn không còn lệ để khóc văn chương  (Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch,/Tàn hồn vô lệ khốc văn chương.) (Điệp tử thư trung)

Thời thế ấy chắc là khó cho những bạn văn chương còn vui thú ngâm thơ thưởng nguyệt và nghe đàn. Cho nên những lời bình lưu dấu một sinh hoạt văn chương hiếm có giữa ba nhà văn nho gia đương thời phải là một lưu tích quý giá cho những nhà nghiên cứu văn học thời nay. Tiếc thay, những người có cơ duyên tiếp cận những lời bình văn của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng đã chưa khai thác đủ những yếu tố thời cuộc và hành trạng của ba nhà văn cùng thời này để có thể biết được nhiều hơn về không gian văn hóa Thăng Long cuối thế kỉ XVIII nói chung, và mối quan hệ văn chương giữa những nhà nho văn học đương thời.

 Có một chi tiết quý giá có thể xác định được ngay, là thời điểm bình văn khó có thể là vào thời kì xã hội Đại Việt đã nhất thống sơn hà. Những năm đầu triều đại Gia Long có quá nhiều yếu tố “nhạy cảm” của buổi giao thời. Một tác phẩm như Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du khó có thể cho ông những niềm vui vì văn chương của mình được hành thế và được đón nhận như những thời về sau này. Có những ghi nhận tản mác trong sách cũ cho ta biết suốt thời Gia Long, Truyện Kiều gần như chỉ là thứ “văn chui”, chuyền tay nhau giữa những người yêu văn chương, chỉ vì trong đó có phần ngòi bút Nguyễn Du thật hào sảng phóng tay với hình ảnh Từ Hải dọc ngang nào biết trên đầu có ai… Chỉ đến khi Nguyễn Du qua đời, vua Minh Mạng mới được nghe tài văn chương tuyệt thế của ông, và truyền cho gia đình nhà thơ gom góp di cảo cho vua thưởng lãm. Từ khi đó trở đi, các nho thần, giám sinh ờ đât thần kinh mới chuyền tay nhau những bản chép tay Truyện Kiều để hình thành dòng văn bản Kiều ở Huế (bản Kinh), phân cách với dòng văn bản cũng sẽ lưu hành ở Bắc Thành từ khi có bản khắc ở Phường Hàng Gai (thường gọi tắt là bản Phường), sớm lắm cũng là từ những năm 1830 trở đi…Cho nên lời ghi chép trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện rằng Truyện Kiều hành thế sau khi Lễ Tham hầu đi sứ về chỉ là lời phỏng đoán mơ hồ nếu không nói là sai lạc. Vả chăng, các sử quan chấp bút viết ĐNCBLT vào đời vua Tự Đức (1852), khá lâu sau khi Nguyễn Du qua đời, nhiều sự kiện ghi trong đó chỉ là những ức đoán phỏng chừng. Cần có những căn cứ xác thực hơn, như những lời bình của Vũ Trinh và Nguyên (Huy) Lượng chẳng hạn, để góp phần xác định thời điểm ra đời của Truyện Kiều.

 Từ dấu tích những lời bình Kiều này, chúng ta có nhiều căn cứ xác đáng cho rằng hai vị Vũ và Nguyễn bình Kiều từ những năm tháng trước triều Gia Long, khi họ còn được hít thở không khí văn học một thời rực rỡ. Cũng từ những suy nghĩ này, chúng tôi  nghiêng về giả thuyết Truyện Kiều được sáng tác trước thời Gia Long, cụ thể là những năm tháng cuối cùng của một thời văn học Thăng Long rực rỡ cuối thế kỉ XVIII. Ửng với gia cảnh Nguyễn Du thời buổi ấy thì Truyện Kiều có lẽ là tác phẩm ông viết sau khi trải qua một cuộc bể dâu của thời thế mà cũng là của gia đình ông. Cụ thể hơn nữa, có thể tin là Truyện Kiều đã viết xong trong khoảng “mười năm gió bụi” vì những lí do hiển nhiên của thời thế cũng như cảnh ngộ cá nhân.

Về phần Nguyễn Huy Lượng thì cảnh ngộ ông cũng không khác bao nhiêu. Suốt những năm làm quan trong triều Tây Sơn, ông có những cống hiến mà nay hậu thế ít được biết. Qua một tài liệu gần đây,  chúng ta được biết một công trình đầy sáng tạo của ông trong một thời kì chiến tranh bất ổn kéo dài: bản thiết kế một chiếc xe tự hành nhờ sức gió, mà  một người bạn cùng thời đã phải thán phục, xem như một phát minh có thể ví với “mộc ngưu lưu mã” (trâu gỗ ngựa lăn) của Gia Cát thời cổ (14). Số phận của những người như ông, đam mê sáng tạo, luôn hướng về phía của những cái mới, tiến bộ… đều không tránh khỏi những đố kị, dè bỉu, đàm tiếu của những người không cùng chính kiến; mà những người như thế có thiếu gì trong xã hội tam phân ngũ liệt cuối thế kỉ XVIII và những năm giao thời đầu thế kỉ XIX! Chỉ cần nhắc lại những nhân vật điển hình cùng thời với Nguyễn Huy Lượng: như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích… Không lạ gì khi ngày nay chúng ta không được biết nhiều về những tác phẩm văn học của Nguyễn Huy Lượng khi chính tác giả chúng cũng lui vào chìm khuất sau một cuộc đổi đời… Trong hoàn cảnh đó, văn chương và bình văn có lẽ cũng chịu cảnh ngộ chật vật như thế: “hồn tàn khô lệ khốc văn chương”…

 Cuộc đời Lan Trì Ngư Giả Vũ Trinh cũng có những nỗi niềm riêng. Vốn là cựu thần triều đình Lê Trịnh và vẫn nặng lòng vì chúa cũ, ông miễn cưỡng phục vụ tân triều theo lời triệu mời cuả nhà vua mới, nhưng ông cáo quan về sớm (1803) lấy cớ để tang cố chúa. Không bao lâu ông lại được triệu vời làm quan, đi sứ Thanh, về làm sách luật cho tân triều. Đến khi cha con Nguyễn Văn Thành bị án mưu nghịch, Vũ Trinh là thầy dạy con ông Thành nên cũng bị khép tội phát vãng vào Quảng Nam đến 10 năm. Khi được tha về quê ít ngày thì ông cũng qua đời. Cuộc đời chìm nổi những năm đầu triều đại mới hẳn nhiên chẳng phải là khung cảnh vui thú gì cho chuyện bình văn sang tác… Những hoạt động bình văn như thế chỉ được nâng đỡ trong một bối cảnh thuận lợi cho văn học. Đó chỉ có thể là thời văn học Thăng Long được chắp cánh thời đại cho nó.

 Đó là ý nghĩa của sự có mặt những lời bình văn Kiều của hai ông Vũ, Nguyễn, và của cả Nguyễn Du.

 Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn nhắc lại vì cũng không là thừa, rằng trong những lời bình của Nguyễn Lượng có một lời bình chỉ nhắc lại nguyên vẹn nhan đề Truyện Kiều mà có phần chắc là của Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm từ lúc còn trong vòng bản thảo chuyền tay trong không gian văn học chung quanh Phường Bích Câu, và được hai nhà văn đàn anh ưu ái cho lời “phê”. Khi Nguyễn Lượng ghi một lời ngắn gọn “Đoạn trường tân thanh!” ông không chỉ tán thán sự hòa quyện giữa cốt truyện và chủ đích của tác giả, mà ông còn đích danh nêu tên tựa đề của tác phẩm để gói gọn sự khen tặng. Hẳn nhiên câu chuyện nhan đề ban đầu của Truyện Kiều là gì vẫn đang là một đề tài tranh cãi suốt hơn trăm năm nay. Sở dĩ có sự thể này là bởi vì có hai dòng văn bản song hành từ sau khi Nguyễn Du qua đời: bản Phường ờ Hà Nội và bản Kinh ở Huế. Các bản khắc in của Phường Hàng Gai hầu như độc chiếm thị trường suốt thế kỉ XIX, cho Truyện Kiều cái tựa đề theo truyền thống truyện Nôm thời trước: Kim Vân Kiều Truyện. Cái nhan đề này đã có ảnh hưởng sâu rộng trong công chúng. Cho nên trong bài Lệ Ngôn ở đầu bản tân khắc, Kiều Oánh Mậu cũng ghi  rằng Truyện Kiều nguyên trước có tên là Kim Vân Kiều Truyện! Khi nhận được một bản Kinh chép tay từ ông bạn họ Đào, ông Kiều cho khắc in ở đất Bắc (1902), ông chọn theo bản Kinh ấy mà lấy nhan đề là Đoạn Trường Tân Thanh và cho là theo ý ông thì có ý vị hơn (15). Hơn trăm năm sau ông, chúng ta gặp thêm nhiều bản Kinh chép tay ghi nhan đề truyện là Đoạn Trường Tân Thanh thì chẳng phải vì nhà vua nào tự ý sửa tên truyện như tương truyền, mà chỉ vì đó là tên nguyên thủy của bản Truyện Kiều từ khi còn là bản thảo và có lời bình xác nhận của Nguyễn Lượng từ trước khi có vua nhà Nguyễn!

Bản tân khắc Đoạn Trường Tân Thanh của Kiều Oánh Mậu có nhiều ưu điểm về chữ khắc in, về khảo chú, lại cung cấp cho công chúng những cứ liệu quý cho việc nghiên cứu văn bản và những vấn đề liên quan của truyện Kiều, như thời điểm ra đời và nhan đề bản truyện do Nguyễn Du đặt để từ đầu…

 Các bản khắc in theo dòng bản Phường luôn có bài thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích mà các nhà tàng bản Hàng Gai gọi là bài đề từ. Bài thơ đó nguyên lai không hề có chủ ý làm một bài đề từ cho bản in Truyện Kiều. Chỉ do lòng cảm mộ tác giả bài “… Hữu cảm” mà các nhà khác in đưa vào, khi thì gọi trống là “Thi Vân” (Có thơ nói rằng…), có nhà lại đề hẳn là “Đề từ” (lời tựa). Cho đến khi cụ Hoa Đường Phạm Quý Thích làm bài thơ “Thính Đoạn Trường Tân Thanh hữu cảm” trên đường vào Kinh nhậm chức theo lệnh triệu của triều đình (năm 1811) (16) thì Truyện Kiều chưa được “hành thế” (lưu hành trong dân gian) mà chỉ nằm trong á thư của một số nhà nho quý chuộng văn học. Bài thơ”… Hữu cảm” có những câu như sau:

Đoạn trường mộng lí căn duyên liễu/Bạc mệnh cầm chung oán hận trường/Nhất phiến tàitình thiên cổ lụy/Tân thanh đáo để vị thùy thương  (Thính Đoạn Trường Tân Thanh hữu cảm)

Đã có nhà nghiên cứu cho rằng cụ Hoa Đường dùng từ của nhan đề sách kín đáo bày tỏ sự mến mộ tài văn của Tố Như. Nhưng cũng chỉ là ức đoán chứ khó là một chứng cứ. Lời bình của Nguyễn (Huy) Lượng có ý nghĩa khác: nó chứng nhận tài văn của cậu Chiêu Bảy qua sự nhất quán giữa chủ đề của tác phẩm thể hiện qua nhan sách và cốt truyện mà ông được đọc và bình. 

Tóm lại, qua những lời bình Kiều của Nguyễn (Huy) Lượng và Vũ Trinh, chúng ta biết được những giao tình giữa những người cùng thời ở đất Thăng Long cuối thế kỉ XVIII. Là Nguyễn Du, Vũ Trinh và Nguyễn Huy Lượng, hiện còn lưu dấu trong các bản Kiều chép tay ở Huế. Không chỉ là mối giao tình của những người có duyên nghiệp với giấy bút, những lời bình Kiều của mỗi vị đều hé cho hậu thế biết quan điểm bình văn của họ. Đối với Nguyễn Huy Lượng, điều này càng quý giá, vì ông có quan điểm mới mẻ khi bình văn, vượt bỏ những ước thúc của lối bình văn truyền thống. Ngoài ra, những gì chúng ta biết về những lời bình Kiều của Nguyễn Huy Lượng và Vũ Trinh ngày nay còn mở ra nhiều triển vọng giải gỡ những khúc mắc chung quanh tác phẩm truyện nôm tài danh bậc nhất của văn học cổ điển Việt Nam: Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du. Những tìm tòi nghiên cứu trong tương lai hẳn sae còn nhiều thú vị. Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều như thế, các bản Kiều chép tay thuộc dòng Bản Kinh sẽ có nhiều đóng góp quý giá.

                                                        Đoàn Xuân Kiên

 

     PHỤ LỤC

 

 

Lời bình Kiều của Nguyễn (Huy) Lượng

trong các bản Kinh

 

Dưới đây là bản liệt kê 22 lời bình của Nguyễn Lượng mà chúng tôi trích ra từ khối lượng 60 lời bình của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng tham gia bình văn, như được ghi lại trong bản Truyện Kiều tân khắc của Kiều Oánh Mậu (1902), Nọa Phu Nguyễn Hữu Lập (1870) và bản Ưng Gia.

                                                    

          (c. 1-6)

“Đổng khốc cổ nhân lưu tặng hậu nhân. Thánh Thán bút dã.” (Khóc thương cho ngườI đời xưa để lưu tặng cho người đời sau. Đó chính là lối viết của Thánh Thán vậy.)

        (c. 39 – 40)

         Tả xuất thanh minh cảnh sắc như hoạ (Tả cảnh sắc Thanh Minh   như tranh vẽ

           (c. 53 – 54)

         Thê phong đạm nguyệt sử nhân sầu (Gió lạnh trăng mờ khiến    người ta buồn rầu)

         (c. 59 – 64)

         Đạm Tiên nhất sinh lai lịch bằng Vương Quan sổ ngữ tự xuất tả          đắc như oán như tố linh thính giả bất kham  (Cuộc đời của Đạm   Tiên được Vương Quan tả lại bằng mấy câu thật là ai oán khiến ai      cũng không cầm lòng được)

         (c. 71 – 74)

         Đoạn trường tân thanh! (Tiếng đoạn trường mới!)

        (c. 81 – 82)

Ngôn giả vô tâm, thính giả hữu ý. (Người nói vô tâm, người nghe có ý.)

           (c. 93-96)

                   Tả xuất cổ mộ tà tả cảnh sắc nhất ngôn linh động. (Tả cảnh sắc sinh động của quang cảnh nấm mộ lúc chiều tà.)

                   (c. 213-216)

                   Trang sinh vi hồ điệp da. Hồ điệp vi Trang sinh da. Hoảng hốt đắc diệu! (Trang sinh biến làm bướm a?. Bướm hoá làm Trang sinh đấy a? Hoảng hốt đúng là kì diệu!)

          (c. 497-500)

Đăng hạ mĩ nhân, cầm thanh liên hoan, tình tự tương hà dĩ kham. (Người đẹp dưới đèn, tiếng đàn khêu gợi, làm sao cầm lòng cho được?)

          (c. 501-504)

         Tình cảnh hoạt kiến (Tình và cảnh sinh động.)

          (c. 515-518)

         Trinh thị Thuý Kiều nhất sinh bản lĩnh (Trinh là bản lĩnh cả một đời Thuý Kiều)

          c. 675-680)

                   Đáo thử vô khả nại hà thời, bất đắc bất tác vô khả nại hà ngữ.  (Đến chỗ đường cùng thì chẳng thể ngồi yên, phải thốt lên lời cùng quẫn vậy.)

          (c. 715-720)

         Phụ tù tỉ mại, chỉ quản hôn thuỵ. Thuý Vân tái kiến thân phận tự biệt. (Cha phải tù, chị phải bán mình, thế mà chỉ lo ngủ say. Hai lần Thuý Vân xuất hiện đã thấy thân phận khác với chị rồi.)

          (c. 857-864)

         Thuý Kiều tuy thân dĩ thất nhi nhất điểm bạch vi thường hoặc thất  đương ư thử đẳng xứ kiến chi. (Thuý Kiều tuy đã bị thất thân  nhưng tấm lòng trinh thì ngờ rằng chưa từng mất. Có thể thấy như thế qua những đoạn văn như thế này.)

          (c. 1149-1152)     

         Trinh bạch diệc hữu thời nhi thoái hối, trào hước chi cực, khả phát nhất tiếu. (Đến sự trinh bạch mà cũng có khi phải xin hối, xin  chừa thì trò đời nghĩ cũng đáng bật cười thật!)

          (c. 1531-1532)

         Chân chính nhất vị đương gia đích đại nhân. (Thật đúng là một         bậc bề trên đảm đương việc nhà.)

          (c. 2387-2392)

                    “Bất tử Hoạn Thư nhi tử kì mẫu, dĩ cam tâm yên! Bất diệc nhẫn hồ! Tác giả cố ẩn kì sự dư? Nhiên dư vị Thúc Kì Tâm chính khả sát. Mã Giám Sinh tối bất khả sát. Nguyện thiên hạ thâm tình nhân thỉ vị tư chi. Hoặc viết: Vị Kim sát Mã, khả dã. Nại Viên ngoại ông hà? Liệt ư hiệp kĩ truyện, lương hữu dĩ phù! Thử thiên địa gian bất khả thiểu chi sự nhiên diệc bất tu tận đắc chi sự, biến địa giai thị hằng khả thán dã. (Không giết Hoạn Thư mà giết mẹ Hoạn Thư để thỏa lòng căm tức, thế chẳng là nhẫn tâm lắm ru! Vì thế mà tác giả cố ý giấu sự ấy đi chăng? Riêng ta, ta bảo Thúc Kì Tâm (tức Thúc Sinh) quả đáng giết, còn Mã Giám Sinh thật không đáng giết chút nào. Xin các người có thâm tình trong thiên hạ thử nghĩ mà xem. Có người nói: vì chàng Kim mà giết họ Mã thì cũng phải. Nhưng thế thì đối với ông viên ngoại thì sao? Cho nên đem Kiều mà liệt vào liệt vào truyện hiệp kĩ (người kĩ nữ có nghĩa hiệp) thì thật cũng có lí vậy. Đây là một việc ở giữa trời đất, không nên thiếu, mà cũng là một việc hết thảy không nên thế cả. Nếu trên mặt đất này, khắp đâu cũng đều như thế cả, thì những sự than oán kể sao cho xiết!)

 (c. 2570)

                    “Chỉ thử nhất cú vô hạn thương cảm, tưởng đương nhật Thúy Kiều ngũ chỉ thượng huyết thanh đô tùng tác giả nhất chí bút đầu tâm huyết trung xuất lai.” (Chỉ một câu đây mà lòng thương cảm vô hạn, tưởng ngày ấy những tiếng đẫm máu trên năm đầu ngón tay của Thúy Kiều đều do từ tâm huyết của tác giả mà trào ra dầu ngọn bút.)

 (c.2647-2650)     

Quá mạch sinh xuất dư ba diệc diệu. (Qua mạch văn, âm hưởng tuyệt vời vẫn dạt dào.)

 (c. 3017-3018)

         Chân cá tương đối như mộng mị. (Thật như đứng trước cảnh chiêm bao.)

 

         (c. 3145-3162)

         Độc chí thử phương xưng Thuý Kiều chi trinh đương tại bình    khang lưu lạc thời chí thử tắc xứ đắc ý chi địa vi đắc ý chi sự tố cá bảng dạng dĩ bạch kỉ chi trinh chỉ khả vị Thuý Kiều tắc thái nhĩ. Tuy nhiên năng xưng Thuý Kiều chi trinh diệc bất đa đắc hoặc viết  công tử vương tôn tự thất. Quản kiến tích kiểu khiếp hoành  sinh bất phục tri tại nhân giới lí. (Đọc đến đây mới bảo được rằng Kiều giữ được lòng trinh, nhưng cái trinh ấy có thể thấy được từ      khi nàng còn lưu lạc chốn thanh lâu. Bây giờ ở vào cảnh đắc ý thì   nàng nói thế thôi để tỏ lòng trinh của mình. Tuy nhiên nói rằng Kiều trinh thì cũngkhông phải có nhiều người được thế, hoặc  bảo rằng các bậc vương tôn công tử quen thấy ngày trước khen  chê mà không để lọt vào mắt.)

 (c. 3183-3186)   

Nhị nhân phục nhập tú vi bách chủng hoan ngu, chỉ bất ngôn vân   vũ sự. Thử Thuý Kiều chi toàn tiết xứ diệc văn chương chi tam  muội. (Hai người lại vào trong màn vui vầy hoan lạc, chỉ không nói   đến chuyện mây mưa. Thuý Kiều đã giữ được toàn tiết. Văn  chương như thế thật là ảo diệu.)

  

Chú thích 

 (1) Lê Dư, “Nguồn gốc văn học nước nhà và văn học mới”, Nam Phong số 190 (th. 6 1933), tr. 399-408.

(2) Biệt hiệu Châu Giang có lẽ chỉ là ghi nhầm, vì ở trang sau trang nhan đề có vài dòng về lai lịch người bình văn Nguyễn Lượng như sau: “Nguyên Tri phủ Thiên Trường được ban tặng Hàn Lâm là Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lương phê bằng mực đỏ” (原天長知府冡贈 䮧林珠山樵 侶阮倞硃評 : Nguyên Tri phủ Thiên Trường mông tặng Hàn Lâm Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng chu bình).

(3) Giá Sơn Kiều Oánh Mậu, Đoạn Trường Tân Thanh (Hà Nội, 1902).

(4) Đặng Cao Ruyên, Bể dâu trong dòng họ Nguyễn Du.Tổ hợp xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 101-102.

(5) Quốc Triều Sử Quán, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất Kỷ, Quyển XXXIII bản dịch của Viện Sử Học, nxb. Giáo Dục, 2002, tr. 712.

(6) Hiện nay trên trang mạng Nôm Foundations có lưu bản Nôm Nguyễn Hữu Lập (1870) là bàn chép lại gần đủ các lời bình của hai vị: https://nomfoundation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1870 .

Ngày nay các bản in đều chỉ có lời bình in mực đen cả, khó phân biệt lời nào của ai. Nhờ bài viết của hai soạn giả Bửu Cầm và Tạ Quang Phát (1965) đã giới thiệu toàn bộ lời bình của Vũ Trinh nên việc chọn ra những lời bình của Nguyễn Lượng trở nên dễ dàng, Xem: Bửu Cầm & Tạ Quang Phát, “Vũ Trinh đã phê bình Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du như thế nào?”. Văn Hóa Nguyệt San, năm XIV, Quyển 10 & 11 (Th 10&11.1965), tr. 1529-1542.

(7) Nguyễn Thạch Giang trích lục lời bình này và cho là của Vũ Trinh: “Vũ Trinh phê: “Đổng khốc cổ nhân lưu tặng hậu nhân. Thánh Thán bút dã. Thử sổ cú tận chi. (Thảm thiết khóc ngườI đời xưa để lưu tặng cho người đời sau. Đó là lời Thánh Thán. Như mấy câu đây đã bao quát hết điều đó.)” (Nguyễn Thạch Giang, Truyện Kiều –khảo đính và chú thích. Nxb. ĐH & THCN, 1973, tr.342.). Gs Bửu Cầm thì trích lời phê đó như sau: “Mạo đầu sổ ngữ, cảm khái hệ chi!... Khai quyển sổ cú tận chi!” (Ở mấy lời phủ đầu quyển truyện, niềm cảm khái đã vương theo… Mấy câu mở đầu đã nói trọn cốt truyện!). Phần chấm lửng ở giữa là lời bình dài nói về bút pháp bình văn của Thánh Thán. Gs Bửu Cầm được xem lời phê mực son đó trong bản chép tay của cụ Ưng Gia nên đã không đưa vào bài viết của ông là chỉ giới thiệu những lời mặc bình (phê bằng mực đen) của Vũ Trinh. Có thể nhìn thấy rõ khoảng cách giữa hai lời bình, chứ khổng hẳn là một lời bình liền mạch. (Xem bản chụp Trang Truyện Kiều có lời bình đó trong bản Nôm của Nguyễn Hữu Lập dưới đây). Chúng tôi tin ở sự cẩn trọng của Gs Bửu Cầm, và trả về cho Nguyễn Lượng lời bình này..

 

Trang Truyện Kiều có lời bình đầu tiên trong bản Nôm Nguyễn Hữu Lập (1870)

 (8) Mộng Liên Đường Chủ Nhân, “Bài Tự Truyện Kiều”. Bản dịch của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, in ở đầu Truyện Thúy Kiều, (in lần thứ tám). Nxb Tân Việt, 1958, tr. XLVIII.

(9) Chu Mạnh Trinh (1905), Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập, Hồi 1: Kiều du Thanh Minh)

(10) Xem: Trúc Viên Lê Mạnh Liêu, Thúy Kiều Truyện Tường Chú. Quyển Thượng. Bộ Giáo Duc, Sài Gòn, 1965, tr. 51& tr. 55.

(11) Xem: Nguyễn Quang Hoài, “Đi tìm bản thảo Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du”. NguyenDU.com: http://www.nguyendu.com.vn/m/vi/di-tim-ban-thao-doan-truong-tan-thanh-cua-nguyen-du-A95B04C0240255CBB15C5C10774B006F.html

(12) Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Sơ Tập, Quyển XX. Bản dịch của Viện Sử Học, mục Nguyễn Du: “Nguyễn Du có tài về thơ chữ Hán, lại giỏi quốc âm, sau khi đi sứ nhà Thanh về, có tập thơ Bắc hành với Truyên Kiều ra đời” (Du trường ư thi, vưu thiện quốc âm, Thanh sứ hoàn, dĩ Bắc hành thi tập cập Thúy Kiều truyện hành thế) (Sđd, trang 270).

(13) Gia Phả Họ Nguyễn Tiên Điền. Bản dịch & khảo chú của Nguyễn Thị Bích Đào. Nxb. Văn Học, 2016, tr.55.

 (14) Xem Việt Anh, “Hy Minh với Nguyễn Huy Lượng có quan hệ như thế nào?”. Thông báo Hán Nôm học 2001, tr.27-31.

(15) Kiều Oánh Mậu: “Truyện này trước gọi là truyện Kim Vân Kiều là theo bản của Trung Quốc. Nay bản kinh gọi là Đoạn trường tân thanh, xét theo ý nghĩa, gọi tên ấy là rất đúng, nay cứ y theo.” (Lệ Ngôn, điều thứ ba – theo bản dịch của Lê Thước)

(16) Hà Thị Tuệ Thành, “Một số tư liệu xung quanh bài thơ “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường …”. Hội thảo Quốc tế về chữ Nôm. Huế 2006: https://nomfoundation.org/Conf2006/HTTThanh_Giai_nhan_bat_thi.pdf

 

 

  Nguyễn Huy Lượng bình văn Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du Đoàn Xuân Kiên     Suốt thời trai tráng, Nguyễn Huy Lượng gắn ...