Nguyễn Huy Lượng bình văn
Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du
Đoàn
Xuân Kiên
Suốt thời trai tráng, Nguyễn Huy Lượng gắn bó với sinh hoạt văn chương
nghệ thuât Thăng Long. Gia phả của dòng họ Nguyễn Gia (bên ngoại) và Nguyễn Huy
(bên nội) đều ghi nhận những cuộc đối đáp thơ văn trong vòng bạn bè. Trong số những
người có xướng họa thơ văn cùng ông có những người nổi tiếng một thời ở Thăng
Long như Nguyễn Gia Thiều, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Hàn, Trần Bá Lãm, Bùi Huy
Bích… Ngày nay sách vở tài liệu ghi chép lại những hoạt động của những tao đàn
văn chương Thăng Long thời ấy không còn lại bao nhiêu. Tuy vậy, dõi trong những
ghi chép trong các tập thơ của những nhà nho đất Thăng Long trong khoảng cuối
thế kỉ XVIII thì Nguyễn Huy Lượng được ghi nhận là một trong những nhà văn tiêu
biểu cho một “phái” trong số mười hai “phái” văn học đương thời (1).
Một trong những sinh hoạt văn học mà Nguyễn Huy Lượng có tham dự
tận tình, và được ghi chép lại là lần ông bình văn Nguyễn Du. Sự kiện bình văn
này lần đầu thấy ghi chép trong bài “Lệ Ngôn” của Kiều Oánh Mậu đặt ở đầu tập
tân khắc Đoạn Trường Tân Thanh (1902). Trong bài Lệ Ngôn này,
Kiều Oánh Mậu đã nhắc đi nhắc lại ba lần sự kiện có hai nhà văn nho gia sống
cùng thời với Nguyễn Du đã bình văn Truyện Kiều, là Vũ Trinh và Nguyễn Lượng:
“1. Bản Đoạn trường tân thanh này do cụ Nguyễn Du, tham tri bộ Lễ
đầu triều ta, dựa theo bản Thanh Tâm Tài Nhân ngoại thư của Thánh Thán (Trung
Quốc) mà làm ra. Cụ đã diễn dịch một cách thanh nhã, đẹp đẽ, người đọc lấy làm
khoái trá so với bản dịch của Trung Quốc trội hơn một bậc. Những danh nhân đồng
thời với cụ như ông Vũ Trinh, hiệu Liên Trì, ông Nguyễn Lượng, hiệu Châu Giang
(2), có phê bình, ông Phạm Quý Thích làng Hoa Đường có đề từ. Kế đó lại có ông
Nguyễn Văn Thắng làm ra bản án trong đó có những cái hay, cái quý đều được phô
bày rõ ràng để cống hiến thêm cho người đọc. Ngoài ra còn có nhiều bài đề vịnh
khác, lời lảm nhảm vô vị, không cần nhắc đến.
2- … Năm trước bạn thân tôi là ông Đình nguyên họ Đào ở Cẩm Giang
đem ở Kinh về một bản trong đó có lời phê bình của Nguyễn tiên sinh và Vũ tiên
sinh, chữ viết ngay ngắn, lời văn sáng sủa, duy chỗ nào gặp chữ huý nhà vua
thời lại thay đi làm sai vẻ chân chính của bản gốc…
9- Những lời phê bình của Nguyễn tiên sinh (Nguyễn Lượng) và Vũ
tiên sinh (Vũ Trinh) tôi chỉ trích lấy những câu hay để nêu lên sự
nhận xét sáng suốt của mọi người...” (3)
Trong bản tân khắc năm 1902 ấy, ông Kiều Oánh Mậu chỉ chọn ra một
vài lời bình của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng mà thôi, nhưng đã cho ta biết vắn tắt
về lai lịch hai nhà bình văn được ghi ở sau trang in nhan đề sách như sau:
- “Nguyên Hình Bộ Hữu Tham Tri đắc cách, Liên Trì Ngư Giả Vũ
Trinh mặc bình” (Nguyên Hữu Tham Tri Bộ Hình, Kiên Trì ngư Giả Vũ Trinh phê
mực đen)
- “Nguyên Thiên Trường Tri Phủ mông tặng Hàn Lâm
Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng chu bình” (Nguyên Tri phủ Thiên Trường, được
ban tặng Hàn Lâm, Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng, phê mực son).
Trường hợp Vũ Trinh thì dễ dàng dò tìm ra
tiểu sử, vì tên tuổi ông được lưu lại khá tường tận trong Đại Nam Chính
Biên Liệt Truyện, Sơ Tập, Quyển XX. Trường hợp Nguyễn Lượng có phần mơ hồ,
khó tìm thấy ở đâu. Đã thế, ông Kiều còn cho khắc sai tên hiệu của Nguyễn
Lượng: ở đầu bản khắc in, soạn già ghi rõ như trên, nhưng trong bài Lệ Ngôn,
ông lại ghi tên hiệu của Nguyễn Lượng là Châu Giang (!) Gần đây, ông Đặng Cao
Ruyên lại cho một thông tin khác: “Nguyễn Lượng (1768-1817), hiệu là Châu
Sơn tiều lữ, còn có hiệt là Châu Giang, sau này sẽ cùng với Vũ Trinh, là hai
người đầu tiên bình Kiều” (4). Chúng tôi chưa tìm thấy chứng liệu nào xác
nhận năm sinh năm mất của Nguyễn Lượng như thế. Chúng tôi ngờ rằng ông chỉ chép theo Kiều Oánh Mậu và Nguyễn
Thạch Giang, kể cả sự nhầm lẫn giữa Châu Sơn và Châu Giang? Chúng tôi lần theo
manh mối “ông là tri phủ Thiên Trường và sống cùng thời với Vũ Trinh” và kiểm
chứng với Đại Nam Thực Lục Chính Biên (5) thì có phần chắc là
Nguyễn Lượng chính là Nguyễn Huy Lượng, người đã giữ chức Tri phủ Thiên Trường
(Sơn Nam Hạ), khi chết trận (1807) được truy tặng Hàn Lâm.
Trong số 61 lời bình lượm lặt từ ba bản
Truyện Kiều có gốc gác sao chép từ Huế (bản khắc in của Kiều Oánh
Mậu, hai bản thủ sao của Ưng Gia và Nguyễn Hữu Lập), chúng tôi lọc riêng ra 22
lời “chu bình” của Nguyễn Lượng để khảo sát. (6).
Cũng như Vũ Trinh, Nguyễn Lượng chọn lối bình văn khi đọc từng câu
từng đoạn văn Kiều, từ những câu mào đầu đến những câu cuối của bản cảo khi gia
đình đoàn viên và Kim Kiều tái hợp. Chỗ nào thích thú, ông ghi lại cảm nhận cá
nhân khi đọc những câu những đoạn văn ấy.
Đọc mấy câu mào đầu (câu 1-6), cả hai nhà bình văn đều chú ý đến
chủ đích của tác gia Truyện Kiều. Nguyễn Lượng phê như sau: “Khóc thương cho
ngườI đời xưa để lưu tặng cho người đời sau. Đó chính là lối viết của Thánh
Thán vậy.” (7) Người bình văn ghi nhận là văn chương có nói về nỗi đoạn
trường của người xưa cũng là cách thác ngụ tâm tình của mình gửi lại cho người
đời sau như một sự liên cảm liên thông. Ông nêu lên một quan điểm của một tên
tuổi trong làng văn cổ điển Trung Hoa như một mẫu mực cho lối bình văn không
theo truyền thống đương thời.
Đọc đến đoạn chị em Kiều du xuân tiết Thanh Minh, Nguyễn Lượng hạ
bút tán thán qua vài lời gọn ghẽ: “Tả cảnh sắc Thanh Minh như tranh vẽ”.
Quả như thế, bức tranh “du thanh minh” ở đầu Truyện Kiều được thể
hiện qua những lời thơ lục bát mượt mà: “Ngày xuân con én đưa thoi/Thiều quang
chin chục đã ngoài sáu mươi/Cỏ non xanh tận chân trời/Cành lê trắng điểm một
vài bông hoa/Thanh minh trong tiết tang ba/Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh/Gần xa
nô nức yến anh/Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân/Dập dìu tài tử gia nhân/Ngựa xe
như nước áo quần như nen/Ngổn ngang gò đống kéo lên/Thoi vàng vó rắc tro tiền
giấy bay” (Kiều, c. 39-52). Bức tranh “du Thanh minh” có thể gọi là
quang cảnh tươi sáng hồn hậu hiếm hoi trong toàn bộ tác phẩm. Người bình văn
hẳn là nhận ra ngay cảnh sắc tươi đẹp như tranh, và cũng sớm nhận ra rằng bức
tranh sớm chuyển màu khi mấy chị em dan tay ra về, “Bước dần theo ngọn tiểu
khê/Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh/Nao nao dòng nước uốn quanh…” Cảnh sắc
chuyển sang sắc màu có phần lạnh. Ông phê rằng: “Gió lạnh trăng mờ khiến
người cũng buồn theo”. Nhà bình văn chủ ý nói lên cảm nhận của mình khi đọc
văn Kiều về mặt thẩm mĩ, về nghệ thuật diễn đạt, thể hiện chú ý của tác gia
trên từng lời văn tự sự mà ông đương đọc.
Trong đoạn Kiều du Thanh Minh, tác giả cho Vương Quan kể vắn tắt
về cuộc đời của người ca kĩ Đạm Tiên, Nguyễn Lượng phê như sau: “Cuộc đời
của Đạm Tiên được Vương Quan tả lại bằng mấy câu thật là ai oán khiến ai cũng
không cầm lòng được”. Lời phê ngắn gọn nhưng gói trong đó niềm cảm khái về
một số phận bất hạnh, một bi kịch nhân sinh. Đấy là những dòng chữ ghi lại cảm
nhận của người đọc, những hiệu ứng trực tiếp mà lời văn Nguyễn Du truyền cảm
xúc cho người bình văn. Ta cảm nhận sự liên cảm cụ thể của người bình với lời
tự sự của tác giả Truyện Kiều. Sự liên cảm ấy còn có thể thấy rõ thêm
khi ông đọc đến đoạn người khách viễn phương đến quá trễ, không được gặp Đạm
Tiên. Nguyễn Lượng đã hạ bút “phê”: “Đoạn trường tân thanh!”. Vài lời
ngắn gọn nhưng sắc cạnh cho ta hiểu được rung động của nhà phê bình khi nhận ra
tiếng đoạn trường được báo trước qua số phận hẩm hiu của người ca kĩ xấu số nằm
dưới nấm mộ ven đường trong buổi du xuân của mấy chị em. Sự rung động đầy cảm
hứng của người bình văn cũng cho thấy ông nhìn thấu suốt được chuyện người xưa
và chuyện người nay trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh có sự
liền kề, gắn bó. Đọc văn Kiều đến đây, ông đã nhìn ra chủ đề của toàn truyện
chính là một tiếng đoạn trường mới, đúng như nhan đề của truyện cho thấy. Chưa
hết. Khi đọc đến đoạn Thúy Kiều nghe cậu em Vương Quan kể lại chuyện đời thương
tâm của Đạm Tiên, Thúy Kiều đã cảm xúc bồi hồi dấy lên niềm thương cảm người
xưa và không khỏi chạnh lòng bâng khuâng nghĩ đến mình. Nhà bình văn đã khen
tài kể chuyện mà làm bật lên cá tính của nhân vật Kiều qua ngòi bút của Nguyễn
Du bằng một câu ngắn khác: “Người (Vương Quan) kể thì chỉ lưu tâm đến chuyện
kể thôi, nhưng người nghe (Thúy Kiều) thì có ý (xúc động)”. Để kết lại cảnh
Thúy Kiều thắp hương khấn vái trước mộ Đạm Tiên, ngòi bút Nguyễn Du lại cho nhà
bình văn một niềm cảm mến qua một lời bình: “Tả cảnh sắc bên mộ lúc chiều tà
lời lời sinh động”. Hẳn là Nguyễn Lượng sẵn bút phê màu son trong tay đã
không ngần ngại khuyên son mười bốn chữ trong câu kết ấy: “Một vùng cỏ áy bóng
tà/Gió hiu hiu thổi một và ngọn lau”. Nói cách khác, theo nhà bình văn thì nghệ
thuật tự sự của Nguyễn Du lôi cuốn là nhờ gắn kết giữa cảnh và tình, giữa sự
kiện và yếu tố gây cảm xúc. Lời tự sự mà ăm ắp tình cảm người viết văn, như thể
tác giả cũng là một nhân vật của dòng câu chuyện kể mà ông được đọc.
Theo dõi dòng bình văn của Nguyễn Lượng, có thể thấy khuynh hướng
thưởng ngoạn của ông đặc biệt thích thú với những đoạn văn có sức lôi cuốn của
hư ảo. Hiện thực huyền ảo trong đoạn văn Kiều kể chuyện xướng họa thơ văn giữa
Kiều và hồn ma Đạm Tiên đặc biệt thu hút sự ngưỡng mộ văn chương của tác giả.
Nguyễn Lượng đã phê như sau: “Trang Sinh hóa bướm đấy a? Bướm hóa làm Trang
Sinh đấy a? Kể chuyện nửa thực nửa hư thật kì diệu!”. Sự khoái hoạt với lối
văn hiện thực kì ảo còn được Nguyễn Lượng dành cho một lời phê khác nữa dành
cho đoạn kể chuyện Kim Trọng và Thúy Kiều “vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”,
giao ước thề bồi và Kiều đàn lần thứ nhất trong truyện, mà qua ngòi bút Nguyễn
Du thì tiếng đàn dào dạt cảm xúc, “Rằng hay thì thật là hay/Nghe ra ngậm đắng
nuốt cay thế nào!” Đoạn văn ấy kết thúc với cảnh hai người tình trẻ dở tỉnh dở
say trong men tình. Và Nguyễn Lượng khuyên son cho đoạn văn ấy bằng một lời tán
thán pha nhiều chất hóm hỉnh như có sự đồng tình: “Người đẹp dưới đèn, tiếng
đàn khêu gợi, làm sao cầm lòng cho được?”. Người bình văn cũng không giấu
niềm cảm phục khi tác giả Truyện Kiều đã chuyển cảnh rất nhanh nhạy từ cảnh
tượng đắm say như mộng trở về với hiện thực nhân gian. Ông hạ
bút phê đoạn 501-504: “Tình và cảnh biến hóa thật sinh động!”.
Cũng qua đoạn văn đầy chất đắm say của hai người tình trẻ này,
Thúy Kiều đã bộc lộ cá tính kiên trinh của mình qua một lời thưa cùng chàng Kim
khi chàng đã “trong âu yếm có chiều lả lơi”: “Đã cho vào bậc bố kinh/Đạo tòng
phu lấy chữ trinh làm đầu/Ra tuồng trên bộc trong dâu/Thì con người ấy ai cầu
làm chi”. Nhà bình văn đã phê bên cạnh lời Kiều: “Trinh là bản lĩnh một đời
của Thúy Kiều.” Ông sẽ còn trở lại chủ đề này hơn một lần, vì chính ông
cũng nhận ra đây là những gì tác giả Truyện Kiều đã chủ tâm xây dưng cái hồn
cốt cho nhân vật trung tâm của mình. Nói cách khác, Nguyễn Lượng khen tặng nét
đẹp của văn chương Truyện Kiều ở khía cạnh hô-ứng mà người làm văn luôn phải
chú tâm trong dọc dài câu chuyện kể của mình.
Không lâu sau đoạn thề bồi thắm thiết, cốt truyện đã chuyển sang
nẻo bi kịch. Nhà bình văn theo dõi tâm lí nhân vật Thúy Kiều được phát triển
theo dòng chảy của câu chuyện kể, đến khi Kiều trối lại cùng cha về phận bạc
của mình: “Lượng trên dù chẳng quyết
tình/Gió mây âu hẳn tan tành nước non/Thà rằng liều một thân con/Hoa dù rã cánh,
là còn xanh cây/Phận sao đành vậy cũng vầy/Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh”, ông hạ bút phê mấy dòng
tràn đầy sự thương cảm: “Đến chỗ đường cùng thì chẳng thể ngồi yên,
phải thốt lên lời cùng quẫn vậy.”
Sau khi đã ngã giá, và sau khi đã tâm tình với cha mẹ và các em
như thể những lời trối, Kiều ngồi lặng yên trong phòng ngẫm lại tình đầu dở
dang mà đau xót cho mình và cho người tình. Người em gái Thúy Vân lúc ấy chợt
tỉnh giấc nồng: “Thuý Vân chợt tỉnh giấc
xuân/Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han/Cơ trời dâu bể đa đoan/Một nhà để chị
riêng oan một mình/Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh/Nỗi riêng còn vướng mối tình
chi đây?” (Kiều, c. 715-720). Nhà bình văn hạ ngay một lời phê khá nặng: “Cha
phải tù, chị phải bán mình, thế mà chỉ lo ngủ say. Hai lần Thuý Vân xuất hiện
đã thấy thân phận khác với chị rồi.” Ông chỉ
phê ở lần thứ hai này thôi, nhưng ông đã để ý sự vô cảm của người em gái khi cô
nhìn thấy chị thắp hương khấn vái trước mồ Đạm Tiên: “Vân rằng chị cũng nực
cười/Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!” (KIều, c. 105-106). Cho dù ông không
nặng lời như Vũ Trinh mà cho cô Vân là thứ xuẩn ngốc, ông vẫn thấy “phiền lòng”
vì sự vô tâm, lãnh cảm của người em trước những tình huống không bình thường,
đòi hỏi những người thân yêu phải thể hiện sự đồng cảm, gắn bó và sẻ chia nỗi
đau cơn buồn…
Nguyễn Lượng chỉ quan tâm đến cô em chừng ấy thôi, nhưng cũng đủ
để cho ta thấy ông chú ý đến nghệ thuật tự sư, đến nhịp đập con tim của nhân
vật tự sự chứ không màng đến những gì ngoài văn chương. . Ông dành
trọn sự chú ý vào chị Kiều, và những ứng biến của cô trước những biến động
không ngừng của bước đường bềnh bồng từ khi sẩy chân. Theo dõi Thúy Kiều trên
bước phiêu linh của số phận đoạn trường, khi Kiều vừa mới sa vào vũng lầy của
Mã Giám Sinh và ngao ngán cho số phận, toan bài quyên sinh nhưng rồi phải cân
nhắc lại vì lẽ sống còn: “Giận duyên tủi phận
bời bời/Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh/Nghĩ đi nghĩ lại một mình/Một mình
thì chớ, hai tình nữa sao?/Sau
dầu sinh sự thế nào/Truy nguyên chẳng kẻo luỵ vào song thân/Trót liều âu phải gắng dần/Kíp chầy thôi cũng một lần mà
thôi!" (Kiều, c. 857-864), nhà bình văn cho rằng tuy Kiều đã
chìm rơi xuống đáy vực, mà trong bi kịch người con gái trong trắng ấy vẫn tỏ ra
có bản lĩnh để cân nhắc cách ứng xử: “Thuý Kiều tuy đã bị thất thân nhưng
tấm lòng trinh thì ngờ rằng chưa từng mất. Có thể thấy như thế qua những đoạn
văn như thế này.”
Bi kịch của Thúy Kiều chỉ mới ở vòng đầu mà đã trôi dạt từ Mã Giám
Sinh đến Sở Khanh, để rồi rơi lại vào tay Tú Bà, thì Kiều đã thốt lên lời bi
ai: “Thân lươn bao quản lấm đầu/Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.” (câu
1149-1152). Nhà phê bình không ngăn nổi nỗi bức xúc, bèn phê ngay cạnh đó để tỏ
bày sự cảm thông với người con gái trong trắng mà đương bị dồn vào bước đường cùng: “Đến
sự trinh bạch mà cũng có khi phải xin hối, xin chừa thì trò đời nghĩ cũng đáng
bật cười thật!“.Nghe ra tiếng cười cay đắng
mỉa mai trước tình huống bi kịch.
Khi được Thúc Sinh cứu thoát khỏi lầu xanh,
Thúy Kiều lại phải đối mặt với người vợ cả thật khôn ngoan nhưng cũng thật đáo
để. Qua mấy nét miêu tả nhân vật này, cá tính của Hoạn Thư đã nổi lên với đầy
đủ dáng vẻ kẻ cả: “Duyên đằng sớm thuận gió
đưa/Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày/Ở ăn thì nết cũng hay/Nói điều trói
buộc là tay cũng già.”. Nguyễn Lượng phê
rằng: “Thật đúng là một bậc bề trên đảm đương việc nhà.”. Ông không đi xa như Vũ Trinh để xem hai người phụ
nữ ở hai vị trí, hoàn cảnh khác nhau nhưng có thể là tri kỉ của nhau được, xứng
tầm với nhau trong cuộc sống bình thường. Tuy kiệm lời, Nguyễn Lượng cũng nhận
ra đây là mẫu mực một người phụ nữ quán xuyến đảm đang.
Khi đọc đến đoạn Kiều báo ân báo oán, (câu
2323-2392), nhà bình văn Nguyễn Lượng tỏ ra bất nhẫn với những việc báo ân và
trả thù mà Kiều dành cho những người đã liên quan đến suốt hành trình thanh lâu
hai lượt, thanh y hai lần. Ông hạ một lời phê rất dài: “Không giết Hoạn Thư
mà giết mẹ Hoạn Thư để thỏa lòng căm tức, thế chẳng là nhẫn tâm lắm ru! Vì thế
mà tác giả cố ý giấu sự ấy đi chăng? Riêng ta, ta bảo Thúc Kì Tâm (tức Thúc
Sinh) quả đáng giết, còn Mã Giám Sinh thật không đáng giết chút nào. Xin các
người có thâm tình trong thiên hạ thử nghĩ mà xem! Có người nói: vì chàng Kim
mà giết họ Mã thì cũng phải đi. Nhưng thế thì ông viên ngoại thì sao? Cho nên
đem Kiều mà liệt vào liệt vào truyện hiệp kĩ (người kĩ nữ có nghĩa
hiệp) thì thật cũng có lí vậy. Đây là một việc ở giữa trời đất, không nên
thiếu, mà cũng là một việc hết thảy không nên thế cả. Nếu trên mặt đất này,
khắp đâu cũng đều như thế cả, thì những sự than oán kể sao cho xiết!”. Lời phê có phần nghiêm khắc, phản ảnh rõ tấm lòng
của một người giàu lòng nhân ái, cho nên đọc đến đoạn văn phơi bày cảnh
tượng máu đổ thịt rơi trong trận trả ơn báo oán, nhà phê bình cho là tàn nhẫn
không đáng có ở một người phụ nữ hiếu nghĩa đủ đường, có trái tim yêu thương
rộng mở từ tuổi mới lớn. Phê bình tính cách quá tay của nhân vật trong truyện
thật ra là phê bình sự vênh lệch giữa cá tính nhân vật và những ứng xử cụ thể
trong một tình hương cụ thể. Và đó chỉ là lần duy nhất nhà phê bình tỏ ra không
tán dương lối xây dựng cốt truyện của tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh mà
ông đã dành nhiều sự ái mộ trong suốt hơn hai mươi lần hạ bút “châu phê”.
Quả thế. Khi đọc đến đoạn “Một nhà đoàn viên“
(câu 3009-3018), nhà bình văn lại một lần nữa khoái hoạt với một hiện thực
huyền ảo khác. Ông hạ lời phê ngắn gọn: “Thật như đứng trước cảnh chiêm bao.” Và khi tác giả cho Kim Trọng và Thúy Kiều tâm tình
với nhau trong đêm “động phòng dìu dặt chén mồi” (câu 3135-3162), nhà bình văn
không quên nhắc lại bút pháp hô ứng của văn chương Nguyễn Du khi nhắc lại một
lần nữa tấm lòng kiên trinh của người tình Thúy Kiều dành cho cho người tình
một đời của nàng: “Đọc đến đây mới bảo được rằng Kiều giữ được lòng
trinh, nhưng cái trinh ấy có thể thấy được từ khi nàng còn lưu lạc chốn thanh
lâu. Bây giờ ở vào cảnh đắc ý thì nàng nói thế thôi để tỏ lòng trinh của mình.
Tuy nhiên nói rằng Kiều trinh thì cũng không phải có nhiều người được thế, hoặc
bảo rằng các bậc vương tôn công tử quen thấy ngày trước khen chê mà không để
lọt vào mắt.”
Nguyễn Lượng cũng dành sự khen tặng cho đoạn
văn kì ảo cuối trong Truyện Kiều, khi hai người tình trăm năm lại được sum vầy
trong một cảnh tượng thật mà như mơ, giữa đời trần mà hư ảo như tiên cảnh. Đó
là khi hai người tình cũ lại hợp hoan sau mười lăm năm xa cách với lắm nỗi đoạn
trường chồng chất trong đời nàng. Ông không thể không vinh danh một lần nữa tấm
lòng kiên trinh khác thường của Thúy Kiều, làm nên giá ngọc của nàng (câu
3175-3190). Nguyễn Lượng phê rằng: “Hai người lại vào trong màn vui vầy
hoan lạc, chỉ không nói đến chuyện mây mưa. Thuý Kiều đã giữ được toàn tiết.
Văn chương như thế thật là ảo diệu.”.Trong
nguyên văn lời phê bằng chữ Hán, ông dùng tiếng “văn chương chi tam
muội”, một cách diễn đạt ý tưởng thật hàm súc và phản ảnh sự trân trọng của
ông đối với sự ảo diệu của văn chương: văn không phải là trò chơi chữ nghĩa, mà
nó có thể chế tác năng lượng thăng hoa cuộc sống của con người, nhờ thế mà
người ta vượt lên khỏi những triền phọc đốn tỏa của cuộc đời mà tìm được một
niềm hạnh phúc trong chữ nghĩa. .
Điểm qua những lời bình của Nguyễn Huy Lượng dành cho bản cảo
Truyện Kiều, người đọc ngày hôm nay có thể thấy quan điểm bình văn của ông khá
rõ: ông không vin vào những thuyết lí như văn dĩ tải đạo, hưng ư thi, lập ư lễ,
thành ư nhạc… của trường phái văn chương chi hồ giả dã. Ông thưởng ngoạn văn
chương của bạn văn là để rung động với những lời văn hay, ý đẹp về con người và
cuộc đời thực chung quanh. Ông cũng quý trọng tấm lòng yêu thương con người để
dùng văn như một cách giải phóng con người khỏi những nhàm chán tầm thường.
Suốt hơn hai mươi lần bình văn, không có lời “phê” cao đạo nào nhân danh những
tín điều Nho học vẫn đang còn phổ biến ở thời đại ông.
Có thể nói là lối đọc văn của Nguyễn Lượng thiên về ghi lại những
cảm xúc, cảm nhận mà câu hay đoạn văn khơi động trong nội tâm người đọc. Lối
đọc văn duy cảm, duy mĩ ấy khác hẳn lối bình văn thường thấy ở thời đại ông.
Lối bình văn này cũng không giống với truyền thống bình văn xưa, thường chỉ là
những ý tường phê bình vo tròn, khá tổng quát. Mộng Liên Đường Chủ Nhân sống
sau hai ông vài chục năm, đã từng cảm nhận những ý vị của nghệ thuật tả cảnh,
tả tình trong Truyện Kiều, nhưng chỉ có những lời bình khá khái quát như sau:
“Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã
khổ, tự sự đã khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt
trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút
lực ấy. Bèn vui mà viết bài tựa này.” (8) Ngày nay đọc đến lời bình của ông
trong bài Tựa ấy, người đọc có thể cũng hiểu là người bình văn đã từng rung
động trước những lời thơ lục bát nhẹ nhàng mà tươi sáng, vì người bình đã nói
rằng tác giả “tả cảnh đã hệt”! Cũng đọc đoạn văn Kiều du Thanh Minh ấy,
hơn trăm năm sau, Chu Mạnh Trinh đã chỉ mượn bức tranh du xuân trong Truyện
Kiều để viết một bài thất ngôn bát cú, trong đó ông vẽ lại nét đẹp của bức
tranh bằng lời thơ thất ngôn của mình: Mùa xuân ai khéo vẽ nên
tranh/Nô nức đua nhau hội đạp thanh/Phận bạc ngậm ngùi người chín suối/Duyên
nay dun dủi khách ba sinh/Dãy hoa nép mặt gương lồng bóng/Ngàn liễu rung cương
sóng gợn tình/Man mác vì đâu thêm ngán nỗi !/Đường về chiêng đã gác chênh
chênh.(9)
Người đọc ông Chu chỉ biết rằng ông cũng đã cảm xúc khi đọc đến đoạn
Kiều “du Thanh Minh” của Nguyễn Du, nhưng ông cảm thế nào, không thấy ông nói
cụ thể. Đấy cũng là điển hình cho kiểu bình văn bằng lối đề vịnh cuả thời Nho
học.
Trong cả thảy hơn hai mươi lời bình, Nguyễn Lượng thiên hướng về
ba mảng chính: nghệ thuật tự sự của tác giả Truyện Kiều, nghệ thuật phát triển
tâm lí nhân vật trong truyện, kĩ thuật xây dựng câu chuyện để làm nổi lên chủ
đề câu chuyện mà Nguyễn Du muốn gửi đến người đọc. Đây sẽ là những cứ liệu cụ
thể về một phép đọc văn thời cận đại, khi nhà phê bình tháo bỏ những lề luật
của văn dĩ tải đạo mà xem văn chương là mảnh đất riêng để nhà văn và người đọc
trao đổi tâm tình và khám phá những ý nghĩa ẩn khuất sau lời văn của tác giả
một văn bản. Một quan điểm phê bình văn học như thế còn khá xa lạ với đương
thời. Cho nên cũng không lạ là dưới mắt một nhà nho, những lời bình kia cũng
“xoàng” thôi, không cao vời trên tầng đạo lí, không có lời bình bắt đầu với
những câu kinh điển “Tử viết…” Điển hình cho góc nhìn Nho gia như thế là lời
chê bai của Chiêm Vân Thị trong bài Phàm Lệ khi làm chuyết bản cho Thúy
Kiều Truyện Tường Chú: “Kinh bản có lời phê bình của họ Vũ và họ
Nguyễn. Có người cho hai nhà này là bậc danh nhân đồng thời với Hồng Sơn
(Nguyễn Du). Song xét những lời phê bình đó, đều thấp kém quê mùa. Có lẽ là một
tay xoàng xĩnh nào mượn tiếng đó thôi, chứ không phải là danh nhân” (tr.
55) (Hựu Kinh bản tái hữu Vũ Nguyễn nhị gia phê bình. Hoặc xưng nhị gia thị
Hồng Sơn thời danh nhân. Nhiên thị kì bình ngữ đê lậu ô bỉ, đương thị tục thủ
ngụy thác, phi chân danh nhân dã) (tr. 51)(10). Chiêm Vân Thị thì bình Kiều thế
nào? Ngay đầu bài Phàm Lệ, ông nhận xét như sau về Truyện Thúy Kiều: “Bản Thúy
Kiều truyện là thủ bút của Hồng Sơn tiên sinh. Nói về văn chương: Ý vị nồng nàn
mà sâu xa, khí tượng cao siêu mà thanh quý, lời văn đã tươi đẹp lại hào hoa,
nét bút đã tinh tường lại hồn nhã. Đến sự lựa lời đãi ý, không một lời một chữ
nào là không li kì cổ quái. Đó là đặc sắc cuả bản truyện vậy” (tr. 54) (Thúy
Kiều Truyện nãi Hồng Sơn thủ bút, kì văn dã. Ý vị du hậu nhi thâm tràng, khí
tượng cao hoa nhi thanh quý, từ công lệ nhi hào dậy, bút tinh mật nhi hồn nhã.
Chí vu tuyển từ mệnh ý, nhất tự nhất ngữ, vô bất quang quái li kì! Thử bản
truyện chi đặc sắc dã. (tr. 50) (10). Lời tán tụng như thế thật cũng không thể
cao hơn, nhưng chúng ta không thấy những thuyết minh cụ thể chứng thực lời tán
tụng là không phải là những lời khen thậm xưng hoặc sáo rỗng. Đó chính là phong
cách bình văn đã thành truyền thống thời xưa.
Ngoài giá trị văn học của những lời bình văn mà hai nhà văn cùng thời
với Nguyễn Du để lại, ngày nay những lời bình của hai nhà còn hé cho chúng ta
nhiều ý nghĩa bất ngờ mà suốt hơn trăm năm qua các nhà nghiên cứu văn học
thường bỏ qua.
Trước hết, cần nhắc lại thêm lần nữa cũng không là thừa, hai nhà
văn sống cùng thời với Nguyễn Du và đã được đọc văn Kiều từ câu đầu cho đến
những câu cuối cùng của cảo bản của chính tác giả. Nếu quả đúng như lời kể của
cụ Nguyễn Đình Ngân, người coi sóc Ngự tiền thư viên (thư viện hoàng gia) ở
Huế thời Bảo Đại, thì đến 1945, bó bản thảo mà gia đình Nguyễn Du
trao cho vua Minh Mạng hãy còn trong thư viện. Hẳn là trong đó có cả thủ bản có
lời mặc bình và chu bình của hai nhà văn Vũ, Nguyễn. Và cũng hẳn nhiên là từ
thủ bản này mới nảy ra những bản sao chép của những hoàng tử, tôn công, những
giám sinh trường quốc học… mà còn lưu lại những bản sao chép ấy cho đên ngày
nay. Một bản chép tại Kinh đã được một công tử tặng cho cụ Đào Nguyên Phổ và
được Kiều Oánh Mậu khắc in ở Hà Nội năm 1902 với lời ghi chú rõ ràng về những
lời chu bình và mặc bình của hai nhà bình văn Vũ, Nguyễn.(11)
Vòng luân chuyển của cảo bản Truyện Kiều từ gia tàng nhà họ Nguyễn
đến thư viện hoàng gia đã cho ta biết một thông tin quan trọng: Truyện Kiều
viết xong từ khá sớm. Hai nhà bình văn phải được cơ hội đọc và bình bản cảo rất
sớm, muộn nhất cũng là trước năm 1807, năm Nguyễn Huy Lượng qua đời. Không phải
như lời ghi trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyên, rằng sau khi đi
sứ (năm 1813) về, Nguyễn Du có Truyện Kiều “hành thế” (12). Dò theo gia phả họ
Nguyễn Tiên Điền, chúng ta được biết Vũ Trinh còn là anh rể của tác giả Truyện
Kiều. Vợ ông là người con gái lớn của bà thứ thất Trần Thị Tần, cũng là mẹ ruột
Nguyễn Du (13). Tình thân anh em trong nhà trong họ cho ông điều kiện đọc văn
của cậu em vợ vừa hoàn tất ở tuổi 30 và đã sớm bạc đầu vì nợ văn chương.
Nhìn lại khung cảnh văn học Thăng Long những năm cuối triều Lê-Trịnh,
chúng ta cũng đã biết những khuôn mặt nổi trội của văn học Thăng Long những năm
tháng ấy. Phường Bích Câu trong những năm cuối thế kỉ XVIII đã từng là nơi giao
du tụ hội của những người tuổi trẻ thừa tiếp hạt giống chữ nghĩa của thế hệ cha
anh họ (Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, Tư đồ Nguyễn Nghiễm, Hành Tham Tụng Bùi Huy
Bích, Tể tướng Nguyễn Khản…). Chuyện bình văn của nhau đã là một sinh hoạt bình
thường của những chàng Giám sinh hay những người nho sĩ trẻ tuổi lúc bấy giờ.
Thời điểm thuận lợi nhất cho những tao đàn văn nghệ Thăng Long chính là những
năm kinh thành còn tương đối yên hàn trước khi những xáo trộn kinh thiên động
địa nổ ra từ sau năm 1786. Sau dấu mốc tàn khốc đó, mà Nguyễn Du đã ghi rõ ở
những dòng đầu Truyện Kiều: Trải quan một cuộc bể dâu/Những điều trông thấy đã
đau đớn lòng”, trí thức Thăng Long cũng phân tán như toàn xã hội Bắc hà nói
riêng và toàn cõi Đại Việt nói chung rơi xuống cảnh điêu tàn trong bài tính
tranh bá đồ vương của thời đại. Thời cuộc bão giông sau đó không ít thì nhiều
có tác động đến giấc mộng văn chương của cậu Chiêu Bảy trong gia đình Xuân quận
công Nguyễn Nghiễm. Nhà thơ trẻ Nguyễn Du có lúc đã ngậm ngùi cho số phận văn
chương của ông: Mệnh bạc nhưng còn duyên với sách vở/Hồn tàn không
còn lệ để khóc văn chương (Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch,/Tàn hồn
vô lệ khốc văn chương.) (Điệp tử thư trung)
Thời thế ấy chắc là khó cho những bạn văn chương còn vui thú ngâm thơ
thưởng nguyệt và nghe đàn. Cho nên những lời bình lưu dấu một sinh hoạt văn
chương hiếm có giữa ba nhà văn nho gia đương thời phải là một lưu tích quý giá
cho những nhà nghiên cứu văn học thời nay. Tiếc thay, những người có cơ duyên
tiếp cận những lời bình văn của Vũ Trinh và Nguyễn Lượng đã chưa khai thác đủ
những yếu tố thời cuộc và hành trạng của ba nhà văn cùng thời này để có thể
biết được nhiều hơn về không gian văn hóa Thăng Long cuối thế kỉ XVIII nói
chung, và mối quan hệ văn chương giữa những nhà nho văn học đương thời.
Có một chi tiết quý giá có thể xác định được
ngay, là thời điểm bình văn khó có thể là vào thời kì xã hội Đại Việt đã nhất
thống sơn hà. Những năm đầu triều đại Gia Long có quá nhiều yếu tố “nhạy cảm”
của buổi giao thời. Một tác phẩm như Đoạn Trường Tân Thanh của
Nguyễn Du khó có thể cho ông những niềm vui vì văn chương của mình được hành
thế và được đón nhận như những thời về sau này. Có những ghi nhận tản mác trong
sách cũ cho ta biết suốt thời Gia Long, Truyện Kiều gần như chỉ là thứ “văn
chui”, chuyền tay nhau giữa những người yêu văn chương, chỉ vì trong đó có phần
ngòi bút Nguyễn Du thật hào sảng phóng tay với hình ảnh Từ Hải dọc ngang nào
biết trên đầu có ai… Chỉ đến khi Nguyễn Du qua đời, vua Minh Mạng mới được nghe
tài văn chương tuyệt thế của ông, và truyền cho gia đình nhà thơ gom góp di cảo
cho vua thưởng lãm. Từ khi đó trở đi, các nho thần, giám sinh ờ đât thần kinh
mới chuyền tay nhau những bản chép tay Truyện Kiều để hình thành dòng văn bản
Kiều ở Huế (bản Kinh), phân cách với dòng văn bản cũng sẽ lưu hành ở Bắc Thành
từ khi có bản khắc ở Phường Hàng Gai (thường gọi tắt là bản Phường), sớm lắm
cũng là từ những năm 1830 trở đi…Cho nên lời ghi chép trong Đại Nam
Chính Biên Liệt Truyện rằng Truyện Kiều hành thế sau khi Lễ Tham hầu
đi sứ về chỉ là lời phỏng đoán mơ hồ nếu không nói là sai lạc. Vả chăng, các sử
quan chấp bút viết ĐNCBLT vào đời vua Tự Đức (1852), khá lâu sau khi Nguyễn Du
qua đời, nhiều sự kiện ghi trong đó chỉ là những ức đoán phỏng chừng. Cần có
những căn cứ xác thực hơn, như những lời bình của Vũ Trinh và Nguyên (Huy)
Lượng chẳng hạn, để góp phần xác định thời điểm ra đời của Truyện Kiều.
Từ dấu tích những lời bình Kiều này, chúng ta
có nhiều căn cứ xác đáng cho rằng hai vị Vũ và Nguyễn bình Kiều từ những năm
tháng trước triều Gia Long, khi họ còn được hít thở không khí văn học một thời
rực rỡ. Cũng từ những suy nghĩ này, chúng tôi nghiêng về giả thuyết Truyện
Kiều được sáng tác trước thời Gia Long, cụ thể là những năm tháng cuối cùng của
một thời văn học Thăng Long rực rỡ cuối thế kỉ XVIII. Ửng với gia cảnh Nguyễn
Du thời buổi ấy thì Truyện Kiều có lẽ là tác phẩm ông viết sau khi trải qua một
cuộc bể dâu của thời thế mà cũng là của gia đình ông. Cụ thể hơn nữa, có thể
tin là Truyện Kiều đã viết xong trong khoảng “mười năm gió bụi” vì những lí do
hiển nhiên của thời thế cũng như cảnh ngộ cá nhân.
Về phần Nguyễn Huy Lượng thì cảnh ngộ ông cũng
không khác bao nhiêu. Suốt những năm làm quan trong triều Tây Sơn, ông có những
cống hiến mà nay hậu thế ít được biết. Qua một tài liệu gần
đây, chúng ta được biết một công trình đầy sáng tạo của ông trong
một thời kì chiến tranh bất ổn kéo dài: bản thiết kế một chiếc xe tự hành nhờ
sức gió, mà một người bạn cùng thời đã phải thán phục, xem như một
phát minh có thể ví với “mộc ngưu lưu mã” (trâu gỗ ngựa lăn) của Gia Cát thời
cổ (14). Số phận của những người như ông, đam mê sáng tạo, luôn hướng về phía
của những cái mới, tiến bộ… đều không tránh khỏi những đố kị, dè bỉu, đàm tiếu
của những người không cùng chính kiến; mà những người như thế có thiếu gì trong
xã hội tam phân ngũ liệt cuối thế kỉ XVIII và những năm giao thời đầu thế kỉ
XIX! Chỉ cần nhắc lại những nhân vật điển hình cùng thời với Nguyễn Huy Lượng:
như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích… Không lạ gì khi ngày nay chúng ta không được
biết nhiều về những tác phẩm văn học của Nguyễn Huy Lượng khi chính tác giả
chúng cũng lui vào chìm khuất sau một cuộc đổi đời… Trong hoàn cảnh đó, văn
chương và bình văn có lẽ cũng chịu cảnh ngộ chật vật như thế: “hồn tàn khô
lệ khốc văn chương”…
Cuộc đời Lan Trì Ngư Giả Vũ Trinh cũng có
những nỗi niềm riêng. Vốn là cựu thần triều đình Lê Trịnh và vẫn nặng lòng vì
chúa cũ, ông miễn cưỡng phục vụ tân triều theo lời triệu mời cuả nhà vua mới,
nhưng ông cáo quan về sớm (1803) lấy cớ để tang cố chúa. Không bao lâu ông lại
được triệu vời làm quan, đi sứ Thanh, về làm sách luật cho tân triều. Đến khi
cha con Nguyễn Văn Thành bị án mưu nghịch, Vũ Trinh là thầy dạy con ông Thành
nên cũng bị khép tội phát vãng vào Quảng Nam đến 10 năm. Khi được tha về quê ít
ngày thì ông cũng qua đời. Cuộc đời chìm nổi những năm đầu triều đại mới hẳn
nhiên chẳng phải là khung cảnh vui thú gì cho chuyện bình văn sang tác… Những
hoạt động bình văn như thế chỉ được nâng đỡ trong một bối cảnh thuận lợi cho
văn học. Đó chỉ có thể là thời văn học Thăng Long được chắp cánh thời đại cho
nó.
Đó là ý nghĩa của sự có mặt những lời bình
văn Kiều của hai ông Vũ, Nguyễn, và của cả Nguyễn Du.
Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn nhắc lại vì
cũng không là thừa, rằng trong những lời bình của Nguyễn Lượng có một lời bình
chỉ nhắc lại nguyên vẹn nhan đề Truyện Kiều mà có phần chắc là của Nguyễn Du
đặt tên cho tác phẩm từ lúc còn trong vòng bản thảo chuyền tay trong không gian
văn học chung quanh Phường Bích Câu, và được hai nhà văn đàn anh ưu ái cho lời
“phê”. Khi Nguyễn Lượng ghi một lời ngắn gọn “Đoạn trường tân thanh!”
ông không chỉ tán thán sự hòa quyện giữa cốt truyện và chủ đích của tác giả, mà
ông còn đích danh nêu tên tựa đề của tác phẩm để gói gọn sự khen tặng. Hẳn
nhiên câu chuyện nhan đề ban đầu của Truyện Kiều là gì vẫn đang là một đề tài
tranh cãi suốt hơn trăm năm nay. Sở dĩ có sự thể này là bởi vì có hai dòng văn
bản song hành từ sau khi Nguyễn Du qua đời: bản Phường ờ Hà Nội và bản Kinh ở
Huế. Các bản khắc in của Phường Hàng Gai hầu như độc chiếm thị trường suốt thế
kỉ XIX, cho Truyện Kiều cái tựa đề theo truyền thống truyện Nôm thời
trước: Kim Vân Kiều Truyện. Cái nhan đề này đã có ảnh hưởng sâu
rộng trong công chúng. Cho nên trong bài Lệ Ngôn ở đầu bản tân khắc, Kiều Oánh
Mậu cũng ghi rằng Truyện Kiều nguyên trước có tên là Kim Vân
Kiều Truyện! Khi nhận được một bản Kinh chép tay từ ông bạn họ Đào, ông
Kiều cho khắc in ở đất Bắc (1902), ông chọn theo bản Kinh ấy mà lấy nhan đề
là Đoạn Trường Tân Thanh và cho là theo ý ông thì có ý vị hơn
(15). Hơn trăm năm sau ông, chúng ta gặp thêm nhiều bản Kinh chép tay ghi nhan
đề truyện là Đoạn Trường Tân Thanh thì chẳng phải vì nhà vua
nào tự ý sửa tên truyện như tương truyền, mà chỉ vì đó là tên nguyên thủy của
bản Truyện Kiều từ khi còn là bản thảo và có lời bình xác nhận của Nguyễn Lượng
từ trước khi có vua nhà Nguyễn!
Bản tân khắc Đoạn Trường Tân Thanh của
Kiều Oánh Mậu có nhiều ưu điểm về chữ khắc in, về khảo chú, lại cung cấp cho
công chúng những cứ liệu quý cho việc nghiên cứu văn bản và những vấn đề liên
quan của truyện Kiều, như thời điểm ra đời và nhan đề bản truyện do Nguyễn Du
đặt để từ đầu…
Các bản khắc in theo dòng bản Phường luôn có
bài thơ chữ Hán của Phạm Quý Thích mà các nhà tàng bản Hàng Gai gọi là bài đề
từ. Bài thơ đó nguyên lai không hề có chủ ý làm một bài đề từ cho bản in Truyện
Kiều. Chỉ do lòng cảm mộ tác giả bài “… Hữu cảm” mà các nhà khác in đưa vào, khi
thì gọi trống là “Thi Vân” (Có thơ nói rằng…), có nhà lại đề hẳn là “Đề từ”
(lời tựa). Cho đến khi cụ Hoa Đường Phạm Quý Thích làm bài thơ “Thính Đoạn
Trường Tân Thanh hữu cảm” trên đường vào Kinh nhậm chức theo lệnh triệu của
triều đình (năm 1811) (16) thì Truyện Kiều chưa được “hành thế” (lưu hành trong
dân gian) mà chỉ nằm trong á thư của một số nhà nho quý chuộng văn học. Bài
thơ”… Hữu cảm” có những câu như sau:
Đoạn trường mộng
lí căn duyên liễu/Bạc mệnh cầm chung oán hận trường/Nhất phiến tàitình thiên cổ
lụy/Tân thanh đáo để vị thùy thương (Thính Đoạn Trường Tân Thanh hữu cảm)
Đã có nhà nghiên cứu cho rằng cụ Hoa Đường dùng từ
của nhan đề sách kín đáo bày tỏ sự mến mộ tài văn của Tố Như. Nhưng cũng chỉ là
ức đoán chứ khó là một chứng cứ. Lời bình của Nguyễn (Huy) Lượng có ý nghĩa
khác: nó chứng nhận tài văn của cậu Chiêu Bảy qua sự nhất quán giữa chủ đề của
tác phẩm thể hiện qua nhan sách và cốt truyện mà ông được đọc và bình.
Tóm lại, qua những lời bình Kiều của Nguyễn (Huy)
Lượng và Vũ Trinh, chúng ta biết được những giao tình giữa những người cùng
thời ở đất Thăng Long cuối thế kỉ XVIII. Là Nguyễn Du, Vũ Trinh và Nguyễn Huy
Lượng, hiện còn lưu dấu trong các bản Kiều chép tay ở Huế. Không chỉ là mối
giao tình của những người có duyên nghiệp với giấy bút, những lời bình Kiều của
mỗi vị đều hé cho hậu thế biết quan điểm bình văn của họ. Đối với Nguyễn Huy
Lượng, điều này càng quý giá, vì ông có quan điểm mới mẻ khi bình văn, vượt bỏ
những ước thúc của lối bình văn truyền thống. Ngoài ra, những gì chúng ta biết
về những lời bình Kiều của Nguyễn Huy Lượng và Vũ Trinh ngày nay còn mở ra
nhiều triển vọng giải gỡ những khúc mắc chung quanh tác phẩm truyện nôm tài
danh bậc nhất của văn học cổ điển Việt Nam: Đoạn Trường Tân Thanh của
Nguyễn Du. Những tìm tòi nghiên cứu trong tương lai hẳn sae còn nhiều thú vị.
Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều như thế, các bản Kiều chép tay thuộc dòng Bản
Kinh sẽ có nhiều đóng góp quý giá.
Đoàn Xuân Kiên
PHỤ LỤC
Lời bình Kiều của Nguyễn (Huy) Lượng
trong các bản Kinh
Dưới đây là bản liệt kê 22 lời bình của
Nguyễn Lượng mà chúng tôi trích ra từ khối lượng 60 lời bình của Vũ Trinh và
Nguyễn Lượng tham gia bình văn, như được ghi lại trong bản Truyện Kiều tân khắc
của Kiều Oánh Mậu (1902), Nọa Phu Nguyễn Hữu Lập (1870) và bản Ưng Gia.
(c. 1-6)
“Đổng khốc cổ nhân lưu tặng hậu nhân.
Thánh Thán bút dã.” (Khóc thương cho ngườI đời xưa để lưu tặng cho người đời
sau. Đó chính là lối viết của Thánh Thán vậy.)
(c. 39 – 40)
Tả xuất thanh minh
cảnh sắc như hoạ (Tả cảnh sắc Thanh Minh như tranh vẽ)
(c. 53 –
54)
Thê phong đạm
nguyệt sử nhân sầu (Gió lạnh trăng mờ khiến người ta
buồn rầu)
(c. 59 – 64)
Đạm Tiên nhất sinh
lai lịch bằng Vương Quan sổ ngữ tự xuất
tả đắc như oán như
tố linh thính giả bất kham (Cuộc đời của
Đạm Tiên được Vương Quan tả lại bằng mấy câu thật là ai oán
khiến ai cũng không cầm lòng được)
(c. 71 – 74)
Đoạn trường tân
thanh! (Tiếng đoạn trường mới!)
(c. 81 – 82)
Ngôn giả vô tâm, thính giả hữu ý. (Người
nói vô tâm, người nghe có ý.)
(c.
93-96)
Tả
xuất cổ mộ tà tả cảnh sắc nhất ngôn linh động. (Tả cảnh sắc sinh động của
quang cảnh nấm mộ lúc chiều tà.)
(c.
213-216)
Trang
sinh vi hồ điệp da. Hồ điệp vi Trang sinh da. Hoảng hốt đắc diệu! (Trang
sinh biến làm bướm a?. Bướm hoá làm Trang sinh đấy a? Hoảng hốt đúng là kì
diệu!)
(c. 497-500)
Đăng hạ mĩ nhân, cầm thanh liên hoan,
tình tự tương hà dĩ kham. (Người đẹp dưới đèn, tiếng đàn khêu gợi, làm sao
cầm lòng cho được?)
(c. 501-504)
Tình cảnh hoạt
kiến (Tình và cảnh sinh động.)
(c. 515-518)
Trinh thị
Thuý Kiều nhất sinh bản lĩnh (Trinh là bản lĩnh cả một đời Thuý Kiều)
c. 675-680)
Đáo
thử vô khả nại hà thời, bất đắc bất tác vô khả nại hà ngữ. (Đến chỗ
đường cùng thì chẳng thể ngồi yên, phải thốt lên lời cùng quẫn vậy.)
(c. 715-720)
Phụ tù tỉ mại, chỉ
quản hôn thuỵ. Thuý Vân tái kiến thân phận tự biệt. (Cha phải tù, chị
phải bán mình, thế mà chỉ lo ngủ say. Hai lần Thuý Vân xuất hiện đã thấy
thân phận khác với chị rồi.)
(c. 857-864)
Thuý Kiều tuy thân
dĩ thất nhi nhất điểm bạch vi thường hoặc thất đương ư thử đẳng xứ
kiến chi. (Thuý Kiều tuy đã bị thất thân nhưng tấm lòng trinh thì
ngờ rằng chưa từng mất. Có thể thấy như thế qua những đoạn văn như thế này.)
(c.
1149-1152)
Trinh bạch diệc
hữu thời nhi thoái hối, trào hước chi cực, khả phát nhất tiếu. (Đến sự
trinh bạch mà cũng có khi phải xin hối, xin chừa thì trò đời nghĩ
cũng đáng bật cười thật!)
(c.
1531-1532)
Chân chính nhất vị
đương gia đích đại nhân. (Thật đúng là
một bậc bề trên đảm đương
việc nhà.)
(c.
2387-2392)
“Bất
tử Hoạn Thư nhi tử kì mẫu, dĩ cam tâm yên! Bất diệc nhẫn hồ! Tác giả cố ẩn kì
sự dư? Nhiên dư vị Thúc Kì Tâm chính khả sát. Mã Giám Sinh tối bất khả sát.
Nguyện thiên hạ thâm tình nhân thỉ vị tư chi. Hoặc viết: Vị Kim sát Mã, khả dã.
Nại Viên ngoại ông hà? Liệt ư hiệp kĩ truyện, lương hữu dĩ phù! Thử thiên địa
gian bất khả thiểu chi sự nhiên diệc bất tu tận đắc chi sự, biến địa giai thị
hằng khả thán dã. (Không giết Hoạn Thư mà giết mẹ Hoạn Thư để thỏa lòng căm
tức, thế chẳng là nhẫn tâm lắm ru! Vì thế mà tác giả cố ý giấu sự ấy đi chăng?
Riêng ta, ta bảo Thúc Kì Tâm (tức Thúc Sinh) quả đáng giết, còn Mã Giám Sinh
thật không đáng giết chút nào. Xin các người có thâm tình trong thiên hạ thử
nghĩ mà xem. Có người nói: vì chàng Kim mà giết họ Mã thì cũng phải. Nhưng thế
thì đối với ông viên ngoại thì sao? Cho nên đem Kiều mà liệt vào liệt vào
truyện hiệp kĩ (người kĩ nữ có nghĩa hiệp) thì thật cũng có lí
vậy. Đây là một việc ở giữa trời đất, không nên thiếu, mà cũng là một việc hết
thảy không nên thế cả. Nếu trên mặt đất này, khắp đâu cũng đều như thế cả, thì
những sự than oán kể sao cho xiết!)
(c. 2570)
“Chỉ
thử nhất cú vô hạn thương cảm, tưởng đương nhật Thúy Kiều ngũ chỉ thượng huyết
thanh đô tùng tác giả nhất chí bút đầu tâm huyết trung xuất lai.” (Chỉ một
câu đây mà lòng thương cảm vô hạn, tưởng ngày ấy những tiếng đẫm máu trên năm
đầu ngón tay của Thúy Kiều đều do từ tâm huyết của tác giả mà trào ra dầu ngọn
bút.)
(c.2647-2650)
Quá mạch sinh xuất dư ba diệc diệu. (Qua
mạch văn, âm hưởng tuyệt vời vẫn dạt dào.)
(c. 3017-3018)
Chân cá tương đối
như mộng mị. (Thật như đứng trước cảnh chiêm bao.)
(c. 3145-3162)
Độc chí thử phương
xưng Thuý Kiều chi trinh đương tại bình khang lưu lạc
thời chí thử tắc xứ đắc ý chi địa vi đắc ý chi sự tố cá bảng dạng dĩ bạch
kỉ chi trinh chỉ khả vị Thuý Kiều tắc thái nhĩ. Tuy nhiên năng xưng Thuý Kiều
chi trinh diệc bất đa đắc hoặc viết công tử vương tôn tự thất.
Quản kiến tích kiểu khiếp hoành sinh bất phục tri tại nhân giới lí. (Đọc
đến đây mới bảo được rằng Kiều giữ được lòng trinh, nhưng cái trinh ấy có
thể thấy được từ khi nàng còn lưu lạc chốn
thanh lâu. Bây giờ ở vào cảnh đắc ý thì nàng nói thế thôi để
tỏ lòng trinh của mình. Tuy nhiên nói rằng Kiều trinh thì cũngkhông
phải có nhiều người được thế, hoặc bảo rằng các bậc vương tôn công
tử quen thấy ngày trước khen chê mà không để lọt vào mắt.)
(c. 3183-3186)
Nhị nhân phục nhập tú vi bách chủng
hoan ngu, chỉ bất ngôn vân vũ sự. Thử Thuý Kiều chi toàn tiết
xứ diệc văn chương chi tam muội. (Hai người lại vào trong màn vui
vầy hoan lạc, chỉ không nói đến chuyện mây mưa. Thuý Kiều đã
giữ được toàn tiết. Văn chương như thế thật là ảo diệu.)
Chú thích
(1) Lê Dư, “Nguồn gốc văn học nước nhà và văn học mới”, Nam
Phong số 190 (th. 6 1933), tr. 399-408.
(2) Biệt hiệu Châu Giang có lẽ chỉ là ghi nhầm, vì ở trang sau trang
nhan đề có vài dòng về lai lịch người bình văn Nguyễn Lượng như sau: “Nguyên
Tri phủ Thiên Trường được ban tặng Hàn Lâm là Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lương phê
bằng mực đỏ” (原天長知府冡贈 䮧林珠山樵 侶阮倞硃評 : Nguyên
Tri phủ Thiên Trường mông tặng Hàn Lâm Châu Sơn Tiều Lữ Nguyễn Lượng chu bình).
(3) Giá Sơn Kiều Oánh Mậu, Đoạn Trường Tân Thanh (Hà
Nội, 1902).
(4) Đặng Cao Ruyên, Bể dâu trong dòng họ Nguyễn Du.Tổ hợp
xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 101-102.
(5) Quốc Triều Sử Quán, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, Đệ Nhất
Kỷ, Quyển XXXIII bản dịch của Viện Sử Học, nxb. Giáo Dục, 2002, tr. 712.
(6) Hiện nay trên trang mạng Nôm Foundations có lưu bản Nôm Nguyễn Hữu
Lập (1870) là bàn chép lại gần đủ các lời bình của hai vị: https://nomfoundation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1870 .
Ngày nay các bản in đều chỉ có lời bình in mực đen cả, khó phân biệt lời
nào của ai. Nhờ bài viết của hai soạn giả Bửu Cầm và Tạ Quang Phát (1965) đã
giới thiệu toàn bộ lời bình của Vũ Trinh nên việc chọn ra những lời bình của
Nguyễn Lượng trở nên dễ dàng, Xem: Bửu Cầm & Tạ Quang Phát, “Vũ Trinh đã
phê bình Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du như thế nào?”. Văn Hóa
Nguyệt San, năm XIV, Quyển 10 & 11 (Th 10&11.1965), tr. 1529-1542.
(7) Nguyễn Thạch Giang trích lục lời bình này và cho là của Vũ Trinh:
“Vũ Trinh phê: “Đổng khốc cổ nhân lưu tặng hậu nhân. Thánh Thán bút dã. Thử sổ
cú tận chi. (Thảm thiết khóc ngườI đời xưa để lưu tặng cho người đời sau. Đó là
lời Thánh Thán. Như mấy câu đây đã bao quát hết điều đó.)” (Nguyễn Thạch
Giang, Truyện Kiều –khảo đính và chú thích. Nxb. ĐH & THCN,
1973, tr.342.). Gs Bửu Cầm thì trích lời phê đó như sau: “Mạo đầu sổ ngữ, cảm
khái hệ chi!... Khai quyển sổ cú tận chi!” (Ở mấy lời phủ đầu quyển truyện,
niềm cảm khái đã vương theo… Mấy câu mở đầu đã nói trọn cốt truyện!). Phần chấm
lửng ở giữa là lời bình dài nói về bút pháp bình văn của Thánh Thán. Gs Bửu Cầm
được xem lời phê mực son đó trong bản chép tay của cụ Ưng Gia nên đã không đưa
vào bài viết của ông là chỉ giới thiệu những lời mặc bình (phê bằng mực đen)
của Vũ Trinh. Có thể nhìn thấy rõ khoảng cách giữa hai lời bình, chứ khổng hẳn
là một lời bình liền mạch. (Xem bản chụp Trang Truyện Kiều có lời bình đó trong
bản Nôm của Nguyễn Hữu Lập dưới đây). Chúng tôi tin ở sự cẩn trọng của Gs Bửu
Cầm, và trả về cho Nguyễn Lượng lời bình này..
Trang Truyện Kiều có lời bình đầu tiên trong bản Nôm Nguyễn Hữu Lập (1870)
(8) Mộng Liên Đường Chủ Nhân, “Bài Tự Truyện Kiều”. Bản dịch của
Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim, in ở đầu Truyện Thúy Kiều, (in lần thứ
tám). Nxb Tân Việt, 1958, tr. XLVIII.
(9) Chu Mạnh Trinh (1905), Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập, Hồi
1: Kiều du Thanh Minh)
(10) Xem: Trúc Viên Lê Mạnh Liêu, Thúy Kiều Truyện Tường Chú.
Quyển Thượng. Bộ Giáo Duc, Sài Gòn, 1965, tr. 51& tr. 55.
(11) Xem: Nguyễn Quang Hoài, “Đi tìm bản thảo Đoạn trường Tân Thanh của Nguyễn Du”. NguyenDU.com: http://www.nguyendu.com.vn/m/vi/di-tim-ban-thao-doan-truong-tan-thanh-cua-nguyen-du-A95B04C0240255CBB15C5C10774B006F.html
(12) Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Sơ Tập, Quyển XX. Bản
dịch của Viện Sử Học, mục Nguyễn Du: “Nguyễn Du có tài về thơ chữ Hán, lại giỏi
quốc âm, sau khi đi sứ nhà Thanh về, có tập thơ Bắc hành với Truyên Kiều ra
đời” (Du trường ư thi, vưu thiện quốc âm, Thanh sứ hoàn, dĩ Bắc hành thi tập
cập Thúy Kiều truyện hành thế) (Sđd, trang 270).
(13) Gia Phả Họ Nguyễn Tiên Điền. Bản dịch & khảo chú
của Nguyễn Thị Bích Đào. Nxb. Văn Học, 2016, tr.55.
(14) Xem Việt Anh, “Hy Minh với
Nguyễn Huy Lượng có quan hệ như thế nào?”. Thông báo Hán Nôm học
2001, tr.27-31.
(15) Kiều Oánh Mậu: “Truyện này trước gọi là truyện Kim Vân Kiều là
theo bản của Trung Quốc. Nay bản kinh gọi là Đoạn trường tân thanh,
xét theo ý nghĩa, gọi tên ấy là rất đúng, nay cứ y theo.” (Lệ Ngôn, điều thứ ba
– theo bản dịch của Lê Thước)
(16) Hà Thị Tuệ Thành, “Một số tư liệu xung quanh bài thơ “Giai nhân bất
thị đáo Tiền Đường …”. Hội thảo Quốc tế về chữ Nôm. Huế 2006: https://nomfoundation.org/Conf2006/HTTThanh_Giai_nhan_bat_thi.pdf
