Ca dao miệt vườn
Sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử
Năm 1971-1972, một số học sinh lớp lớn thường tổ chức những cuộc du ngoạn đồng quê. Tôi bị hấp lực của cảnh trí và người miệt vườn, bèn cùng học trò sưu tập lại các câu hò hát miệt vườn. Những học sinh cũ của tôi lúc ấy rất bé bỏng, nay chắc còn có thể nhớ lại thấy Kiên “bắt” mình về nghe ông bà, ba má… ca lại những bài hò hát để cho các em ghi lại. Đó chính là công trình sưu tập mà tôi cho ấn hành tại Vĩnh Long, mang tên Tâm sự Cửu Long(nhà xuất bản Phố Tịnh, 1973), hình bìa do người bạn miệt vườn Lê Triều Điển vẽ trên giấy stencil.
Trong lời tựa (“Những tiếng hát bỏ quên”), tôi viết rằng: “Chúng tôi cũng ghi nhận tinh thần sốt sắng của các học sinh lớp 6/6, 6/7, 9/6, 11A3 nk 1972-1973 trung học Tống Phước Hiệp. Tinh thần nhiệt nồng của các em đã khích lệ chúng tôi nhiều lắm”.
Nay xin ghi lại hai trích đoạn trong số những chương tôi viết về ca dao miệt trong thời gian ở trường Tống Phước Hiệp, như một vết tích kỉ niệm ở Phố Tịnh. ( ĐXK )
I
Miệt Vườn
Đồng
bằng sông Cửu Long là một vùng đất rộng mênh mông, màu mỡ, bao gồm một phần khá
lớn đất đai miền Nam. Phong nhiêu màu mỡ
nhất là dải đất nằm hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu.
Người Việt đầu tiên đến sinh cơ lập nghiệp ở
miền đất này từ bao giờ, nay ta chưa thể dò biết chắc chắn. Nhưng có thể biết được điều này: những tập đoàn người Việt đến sinh sống tại
vùng đất này đã từ khoảng nửa sau thế kỉ XVII, khi đất nước bùng ra những biến
động lịch sử dẫn đến những biến động dân số vào thời kì bấy giờ.
Cho đến đầu thế kỉ XX thì đồng bằng sông Cửu
Long mênh mông từ vùng đất Ba Giồng đến tận miệt Rạch Giá, Cà Mau ở phía dưới,
đâu đâu cũng in đậm dấu tích của công trình lao động của người Việt trên bước
đường lưu xứ. Địa thế khá phức tạp, đến
nỗi một người ở Gò Công, Tân An, khó hình dung được cảnh đất Rạch Giá; người ở Cái Bè lên thăm miệt Tân Châu sẽ
không khỏi ngỡ ngàng với cảnh đất nơi đây.
Tên gọi “đồng bằng sông Cửu long”
cũng chỉ là một tên gọi mới có từ vài chục năm nay thôi. Theo kinh nghiệm hiểu biết của dân chúng sinh
sống ở đây, người ta đã phân cách rạch ròi từng vùng đất nhỏ, dựa theo những
tính cách riêng của địa thế từng vùng:
o Miệt Trên: vùng đất miền đông, bao gồm khoảng đất Biên
Hoà, Bình Dương xuống khoảng Long An;
o Miệt Vườn:
bao gồm vùng đất màu mỡ ven sông Tiền xuống tận ven bờ sông Hậu, nay là khoảng
đất chạy dài từ Cái Bè xuống Vĩnh Long, Cần Thơ;
o Miệt
Tháp Mười: vùng đất phèn trũng Đồng Tháp;
o Miệt
Hai Huyện: vùng đất cồn Cù Lao Ông Chưởng nối sông Hậu qua sông Tiền ở mé
trên, nay thuộc khoảng đất Long Xuyên;
o Miệt
Xà Tón, Bảy Núi: vùng đất xa xôi ở phía biên giới phía nam, nay thuộc khoảng
đất Châu Đốc;
o Miệt Dưới:
vùng đất phèn mặn ở Rạch Giá, Cà Mau.
Trong những miệt đất nói trên thì đến thế kỉ
XIX, Miệt Trên và Miệt Vườn đã sớm trở thành những trung
tâm kinh tế sầm uất, nổi bật là Cù Lao Phố, vùng Bến Nghé, Ba Giồng và cảnh chợ
Long Hồ. Đời sống vật chất thoải mái, Miệt Vườn và Miệt Trên sớm được xem là đất văn vật ở vùng Lục Tỉnh (1).
Biểu hiện của văn vật miền Lục Tỉnh này chính
là kho tàng văn học dân gian phong phú, gắn liền với gia tài dân ca cũng không
kém phần độc đáo. Trên các con sông dài
ngút mắt vang ngân tiếng hát những tay lái thương hồ, hoặc để tức cảnh mây nước
hữu tình, hoặc để đối đáp với những bạn ghe khác cũng đang cùng lênh đênh trên
sông nước cảnh xa. Những câu hát điệu hò
dần dần tạo nên bản sắc riêng mà về sau phân thành những tên gọi khác nhau cho
từng làn điệu: hò Cần Thơ, hò Đồng Tháp,
hò Ngã Bảy, hò Cái Bè, hò Vĩnh Long... Hò hát đã trở thành một sinh hoạt gắn bó
với lao động ( hò cấy, hò chèo ghe...), khi vui chơi (lí qua cầu, lí chim
khuyên...).
*
Đến cuối thế kỉ XIX, sinh hoạt miệt vườn càng
thêm sầm uất, nhờ có công cuộc mở mang kinh tế (đào kinh, khẩn hoang đất đai),
ruộng lúa được bội thu, buôn bán phát đạt.
Từ đó mà dẫn theo cả sự bộc phát
phong trào văn nghệ. Sách báo bắt đầu ra nhiều, nhà in tung ra hàng loạt ấn phẩm
đáp ứng nhu cầu nói thơ trong dân
gian, truyện tàu được dịch ra ồ ạt phục vụ cho phong trào nói truyện, rồi đến phong trào ca
nhạc tài tử, ca ra bộ ra đời bên cạnh hình thái tuồng quen thuộc đã từ lâu.
Tất cả đã tạo nên một khung cảnh sinh hoạt văn nghệ độc đáo; hò, hát,
nói thơ, nói truyện, ca nhạc tài tử đã gắn bó với sinh hoạt miệt vườn mãi đến
những năm hai mươi của thế kỉ XX.
Nhưng đến những năm ba mươi thì tình hình có
khác. Từ những năm tháng sau 1929 trở đi, miệt vườn chịu hậu quả của khủng hoảng
kinh tế thế giới, cũng là thời kì câu hát dạ cổ hoài lang (vọng cổ) và hát cải
lương đã chiếm lĩnh vai trò, thay thế hò hát, nói thơ, nói truyện. Ca dao miệt
vườn, và gắn liền với nó là sinh hoạt hò hát dân gian, chỉ còn lờ mờ trong trí
nhớ của người dân miệt vườn, không còn là thứ giải trí tinh thần gắn liền với
sinh hoạt hằng ngày nữa. Đã hết rồi những câu hò thậm thượt của anh thương hồ
như muốn thi với chiều dài của con sông không chỗ tới; đã không còn nữa những
cuộc hò đối đáp giữa các cặp trai gái ở ngoài đồng đang cấy vần công... Trong
các sinh hoạt tập thể, hình thức trình diễn phổ biến vẫn là mấy câu vọng cổ mùi
rệu, giàu tính nhạc, lại vừa giữ được tính dân gian như trong hò hát ngày nào
mà không kém phần ‘văn minh lịch sự’. Từ đó, ca dao lui về bên chiếc nôi ru em
hay trong khoảnh bếp nhà khiêm nhường, âm thầm tự bảo dưỡng trong một thời thế
nhiều bể dâu của xã hội miệt vườn trong khoảng năm mươi năm nay. Mới chỉ năm
mươi năm mà như thể đã lâu lắm, vì khác với ca dao ở đàng ngoài thường có một lịch
sử lâu dài cho việc trau chuốt các câu ca bài hò cũng như việc lưu truyền trong
quảng đại quần chúng, ca dao miệt vườn - trái lại- chỉ mới khai sinh không lâu,
chưa có bao lăm thời gian để gọt dũa và bảo tồn thì thời thế đã đẩy vào lãng
quên. Ca dao miệt vườn ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt như thế nên đến
hôm nay chúng ta không thể không băn khoăn là có hay chăng một thành phần văn học
dân gian gọi là ca dao miệt vườn.
Thật ra, văn học dân gian miệt vườn vẫn còn
đó, ca dao miệt vườn vẫn sống âm thầm trong sinh hoạt thường ngày của người dân
dưới dạng những câu hát ru em... Nhưng nó không hiện diện ồn ào trong nghệ thuật
diễn xướng như những ngày thịnh đạt xa xưa.
*
Cho đến nay, việc tìm hiểu nghiên cứu ca dao
miệt vườn chỉ mới ở bước đầu. Các công trình giới thiệu, sưu tầm, nghiên cứu ca
dao- dân ca- hay nói chung, văn học dân gian – thường có khuynh hướng chú ý đến
những câu ca bài hát tiêu biểu chung cho cả nước, nhưng thật ra là chỉ tham khảo
những câu ca bài hò trong kho tàng ca dao- dân ca miền ngoài. Tuyển tập Tục Ngữ Phong Dao đồ sộ và rất có giá trị
của nhà giáo học giả Nguyễn Văn Ngọc chẳng hạn, chỉ sưu tập ca dao đồng bằng
sông Hồng; về sau này, các sách giáo khoa hoặc nghiên cứu vẫn thường trích dẫn
từ pho Tục Ngữ Phong Dao của ông,
không khỏi gây ấn tượng thiên lệch về giá trị văn học của ca dao các địa phương
khác. Tình trạng ấy kéo dài mãi về sau 1954, khi ở cả hai miền bắt đầu xuất hiện
thêm những công trình nghiên cứu mới. Ngoài Bắc, sách Tục Ngữ, Ca Dao và Dân Ca của Vũ Ngọc Phan đáng kể là một công
trình sưu tập nghiên cứu có giá trị nhờ ở kho tài liệu phong phú về ca dao ba
miền đất nước. Trong Nam, sách Ca Dao Giảng
Luận của Thuần Phong có thể xem như tài liệu đầu tiên nghiên cứu các mặt đề
tài, nội dung, nghệ thuật ca dao miền nam. Thuần Phong cũng là người khơi dậy ý
hướng sưu tập nghiên cứu văn học dân gian vùng đồng bằng Nam bộ trong các giảng
đường đại học, mà kết quả bước đầu là hai công trình giới thiệu Câu Hò Giải Thoát của Ngô Thuần Phượng,
và tiểu luận cao học của Nguyễn Kiến Thiết có tựa đề là Mấy tính cách đặc thù của ca dao miền Nam. Cả hai tiểu luận cao học
văn khoa nói trên đều chưa được phổ biến rộng ra ngoài công chúng. Tiếc là hai
công trình nghiên cứu của trường văn khoa vừa kể trên chưa thoát ra khỏi khuôn
khổ những bài tập nhà trường, lại thêm ý hướng tự hào địa phương, nên không mấy
giá trị về mặt nghiên cứu.
Ta có thể kể thêm vào bảng danh sách này vài
quyển sách mỏng của một nhà văn sinh trưởng ở miền Nam: Nói Về Miền Nam và Văn Minh
Miệt Vườn của Sơn Nam. Trong hai tập vừa kể, rải rác có những nhận định của
tác giả về các mặt sinh hoạt văn học dân gian miệt vườn mà hò hát là phần chủ yếu.
Những năm sau này, theo với nhịp tiến triển của
của khoa nghiên cứu văn học, ý thức sưu tập và nghiên cứu của ca dao – dân ca
các miền đất nước được đặt thành mục tiêu nghiêm chỉnh. Đó là sự hứa hẹn ban đầu
rất đáng khích lệ.
Điểm qua tình hình nghiên cứu, sưu tập ca dao
và dân ca vùng đất phía nam, ta không khỏi ngạc nhiên là kết quả còn rất sơ
sài. Nguyên nhân của sự thể này là sự thiếu vắng một thái độ nghiên cứu nghiêm
túc nên dễ rơi vào một trong hai cực đoan: hoặc là dựa trên cơ sở tự hào địa
phương chật hẹp, hoặc là sự xem thường giá trị của kho tàng văn học dân gian địa
phương.
Ngày nay, nghiên cứu và sưu tập văn học dân
gian miệt vườn là một việc nên và cần làm. Trước tiên là về mặt phương pháp,
chúng ta đã thừa hưởng những thành tựu về mặt phương pháp luận nghiên cứu văn học
dân gian. Nhưng lí lẽ thuyết phục hơn cả vẫn là ở chính bản thân văn học dân
gian miệt vườn. Ca dao – dân ca miệt vườn
đã trước bạ sự có mặt của cộng đồng người Việt tại vùng đất này từ hơn ba trăm
năm nay. Hò hát đã từng là sinh hoạt gắn bó với công việc hàng ngày của người địa
phương, đã là vốn liếng tinh thần của họ. Vốn cũ này chỉ thu hẹp trong những
khung cảnh giới hạn, và có nguy cơ tiêu trầm vì thiếu nuôi dưỡng. Một thành trì
cuối cùng của ca dao miệt vườn nằm ở sinh hoạt ru em, cũng đã tỏ ra lung lay
quá; người ta không chuộng ca dao nữa mà hát nhạc mới, ngâm ngợi mấy câu vọng cổ,
hoặc thậm chí nhờ máy hát. Cho nên thu thập ca dao miệt vườn có nghĩa là nhặt
nhạnh những mảnh vụn tản mát trong trí nhớ đã mơ hồ, kề cận với lãng quên.
Ca dao – dân ca miệt vườn cũng như bao nhiêu
địa phương khác, mang dấu vết của cá tính con người địa phương cũng như xã hội
đặc thù của địa phương đó. Tìm hiểu ca dao miệt vườn, chúng ta sẽ gặp lại con
người trong bối cảnh sống của họ. Điều đó rất có ý nghĩa, vì ăn sâu những đặc
trưng của văn học là những vẻ dáng riêng của con người quen thuộc trong khung cảnh
quen. Vẻ riêng ấy không hề làm nhẹ đi dáng chung của toàn cảnh xã hội của dân tộc.
Giới hạn trong văn học, có thể nói rằng nghiên cứu văn học dân gian địa phương
sẽ giúp ta nhìn rõ hơn vẻ đa dạng những vần thống nhất của văn học dân gian của
cả dân tộc. Và đó là ý nghĩa đặc sắc của việc tìm hiểu nghiên cứu văn học dân
gian địa phương vậy.
Để tiến hành việc tìm hiểu ca dao miệt vườn,
cần phải trả lời thanh thoả một vài câu hỏi về mặt lí luận.
Trước nay, khái niệm văn học dân gian miệt vườn chưa được phổ thông, bất quá chỉ có ‘văn
học dân gian miền Nam’ mà thôi, hiểu như là vùng văn học dân gian bao trùm Lục
Tỉnh ngày xưa. Tự thân văn học dân gian các miền này có những nét giống nhau về
đề tài, chủ đề, thể loại, cách biểu diễn, phong cách ngôn ngữ; nét giống nhau
này còn có thể mở rộng thêm ra đến cả địa giới của Nam Trung Bộ nữa. Thật vậy,
so sánh các câu ca dao Lục Tỉnh – đặc biệt là ở miền Đông – với các câu hát Nam
Trung Bộ, có thể thấy những nét gần gũi về nội dung và cấu trúc câu hát; điểm gần
gũi còn hiển nhiên ở phong cách âm nhạc của câu dân ca: so sánh bài hát chòi
Bình Định với lối nói thơ pha tuồng ở miền Trung với ca ra bộ trong Nam, giữa
các điệu lí ở các vùng đất đàng trong này...
Tuy thế, trong những nét tương đồng vẫn hiện
lộ dáng vẻ đặc thù của địa phương. Càng tiến về nam, câu hát điệu hò càng trở
nên phóng túng hơn, mềm mại hơn: điệu nói thơ Vân Tiên ở Nam không mạnh và chắc
như câu hò thai ở Trung, câu hò miền Nam như muốn dài ra... Câu lục bát từ miền
Đông Nam Bộ xuống đến miệt vườn đã khác lắm. Những nét dị biệt như thế không phải
là tình cờ và tản mạn, mà ngược lại rất có hệ thống, đủ giúp cho ta vạch những
đường ranh khoanh lại những vùng văn học dân gian riêng biệt.
Một vấn đề khác nữa là cách gọi tên đối tượng
tìm hiểu. Trong dân gian miệt vườn không thấy nói đến ca dao - dân ca, mà chỉ
noi đến hò, hát: hò Cái Bè, hò chèo ghe, hát huê tình... Sinh hoạt hò hát là
sinh hoạt âm nhạc diễn xướng dân gian (dân ca) hay là sinh hoạt văn học (ca
dao) ? Dựa vào tính cách của hò hát trong dân gian chúng ta hiểu rằng trong
sinh hoạt, quần chúng không phân chia rạch ròi ranh giới giữa văn học và nghệ
thuật trình diễn; người ta cứ hò, hát, cứ sáng tác các câu hát bài hò sao cho
có thể diễn đạt đầy đủ nhất những cảm xúc của họ trước ngoại cảnh. Nhận thức
nghệ thuật dân gian không phân biệt loại hình sáng tác và trình diễn: trong khi
hò hát, người ta phải ứng tác tại chỗ một tác phẩm bằng lời (đó là sáng tác văn
học), tác phẩm này sẽ được hát lên theo cung bậc nào đó với những nhịp điệu tiết
tấu ổn định (đó là hoạt động âm nhạc, trình diễn), nhiều khi còn phải phối hợp
cả dáng điệu, cử chỉ (đó là hoạt động trình diễn). Nói cách khác, hò hát trong
dân gian kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật thuộc về nhiều loại hình nghệ thuật
khác nhau; sự phối hợp này diễn ra cộng thời trong một quá trình trình diễn/
sáng tác/ trình diễn của một nghệ nhân. Đặc trưng nghệ thuật này chính là tính
cách nguyên hợp của văn học nghệ thuật dân gian.
Nhìn từ quan điểm này, ca dao miệt vườn không
phải là một bản văn tĩnh tại mà nhất thiết phải gắn liền với sắc thái âm nhạc
và hoạt động trình diễn của nó. Nhìn nhận tính cách đặc thù của văn học dân
gian như thế thì có thể không cần bó hẹp nội dung của từ ngữ ‘ca dao’ như cách
hiểu phổ biến hiện nay trong một số sách giáo khoa văn học. Theo cách hiểu này,
ca dao là những câu thơ dân gian sáng tác theo những khuôn khổ thi ca dân tộc,
và vì vậy thuộc về lĩnh vực văn học; trong khi đó, dân ca là những câu hát, và
thuộc phạm vi tìm hiểu của âm nhạc. Sự phân biệt như thế mặc dù khá phân minh
nhưng sẽ khiến chúng ta bối rối khi muốn tìm hiểu ca dao miệt vườn. Tính cách
nguyên hợp của văn học dân gian ở đây xem ra trùng khít với cách hiểu đầy đủ ý
nghĩa của thuật ngữ "ca dao"
trong sách vở Trung Hoa (2).
Vì thế, chúng tôi nghĩ là không có gì gượng
ép khi gọi tên sinh hoạt hò hát dân gian miệt vườn là ca dao miệt vườn. Trong chừng mức đòi hỏi của ngành folklore, chúng ta có thể giới hạn ý
nghĩa của từ ‘dân ca’ trong âm nhạc, còn thuật ngữ ca dao thì dành cho văn học
dân gian – hiểu theo nghĩa nguyên hợp của từ ngữ.
(1) Lục Tỉnh
là tên gọi cũ của phần đất miền Nam thuộc khu vực đồng bằng sông Đồng Nai và
sông Cửu Long. Lục Tỉnh gồm có ba tỉnh
miền Đông (là Biên Hoà, Gia Định, Định Tường) và ba tỉnh miền Tây (là Vĩnh
Long, Long Xuyên, Cần Thơ).
(2) Trong Kinh Thi có câu: “Tâm chi ưu hi, ngã ca thả dao” (lòng buồn bã, ta
ca và dao) [Ngụy Phong, bài Viên Hữu
Đạo]. Sách Mao Truyện thì viết rằng:
“Khúc hợp nhạc viết ca, do ca viết dao” (khúc hát có nhạc đệm theo thì gọi là
ca, hát trơn thì gọi là dao). Sách Cổ Dao
Ngan có bài Phạm Lễ phân biệt
thêm: ca khác dao ở chỗ dao có thế lợi
của nhiều bài ca.Cách hiểu như thế hoàn toàn phù hợp với định
nghĩa trong các từ điển củaTrung Hoa. Từ
Nguyên định nghĩa ca là khúc hát
đặt hợp với một giai điệu âm nhạc; dao là hát suông, không cần dựa vào nhạc. Khang Hi Từ Điển cũng hiểu như thế khi định
nghĩa ‘dao’ là kéo dài giọng nói, trẻ con cũng làm được.
II
Sản phẩm của
một
hoàn cảnh lịch sử đặc biệt
Ca
dao miệt vườn ra đời và phát triển không ra ngoài truyền thống chung của văn học
dân gian cả nước. Tuy nhiên không vì thế mà nó không mang bản sắc riêng. Những
nét riêng của ca dao miệt vườn đều có thể lí hội được phần nào khi chúng ta lưu
ý đến hoàn cảnh lịch sử đã góp phần khai sinh ra nó. Lịch sử của vùng đất mang
tên là Lục Tỉnh sau này đã góp phần của nó vào việc định hình tính cách của
sinh hoạt văn học địa phương cũng như tính cách của con người ở đây. Cho nên sẽ không là thừa khi phác lại bối cảnh
lịch sử hình thành cuộc đất phương nam của tổ quốc, nơi đã ấp ủ và nuôi lớn những
câu hò bài ca khoẻ khoắn, ngồn ngộn chất tươi trẻ, thênh thang như thiên nhiên
nơi đó.
Vùng
đất đồng bằng sông Cửu Long đón tiếp những lưu dân người Việt khá trễ tràng,
sau vùng Giản Phố (lưu vực sông Đồng Nai) đến non một thế kỉ. Nếu tính theo
sách vở thì mãi đến cuối thế kỉ XVII mới có người Việt xuống lập nghiệp ở miệt
vườn. Nhưng lịch sử hình thành vùng đất này thực ra phức tạp hơn thế.
Đầu
mối của sự kiện lịch sử thường được mệnh danh là “cuộc nam tiến” là ở Nguyễn
Hoàng. Khi vào trấn thủ Thuận Hoá, chủ ý của ông là muốn giữ thân, tránh khỏi
mưu hại của Trịnh Kiểm; nhưng dần dần ý đồ xây dựng một cơ nghiệp riêng để đối
chọi với họ Trịnh đã khiến các chúa Nguyễn không ngừng phát triển vùng đất địa
đầu, hoặc là bằng cách đưa một phần dân chúng đi di thực , hoặc là chiêu mộ lưu
dân đưa vào những vùng hẻo lánh ở ngoài địa vực Đại Việt để tăng thêm nguồn lực
kinh tế cùng quân sự của Đàng Trong. Giở lại các tài liệu lịch sử, ta biết rằng
có ít nhất là bốn đợt di chuyển lớn một số lượng dân chúng đáng kể từ các xứ
phía bắc Đàng Trong (tức là vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay) vào các
vùng đất phía nam chỉ trong vòng hai thế kỉ XVI và XVII.
Năm
Mậu Dần 1578, “vua (tức chúa Nguyễn Hoàng) uỷ cho Lương Văn Chánh làm trấn biên
quan, chiêu tập lưu dân đến Cù Mông, Ba Đài khẩn hoang ở Đa Diễn (tức vùng sông
Đà Rằng). Năm thứ 54 (Tân Hợi 1611), người Chiêm xâm lấn biên cảnh, vua sai chủ
sự là Văn Phong dẹp yên, lấy đất ấy làm hai huyện Đông Xuân và Tuy Hoà, đặt phủ
Phú Yên thuộc dinh Quảng Nam và dùng ông làm Lưu Thủ” (1). Thế nghĩa là từ đấy
biên giới chính thức của Đàng Trong kéo dài xuống phía nam đèo Cù Mông lối 40
cây số nữa, đến Đông Xuân và Tuy Hoà. Đó là đợt di dân lớn đầu tiên còn ghi lại
đến nay.
Lần
thứ hai là sau khi đại thắng quân Trịnh ở Quảng Bình năm Mậu Tí 1648, bắt sống
được ba vạn tướng sĩ Đàng Ngoài, chúa Nguyễn Phúc Lan chia ra cho ở các nơi, từ
Thăng Hoa Điện Bàn cho đến Phú Yên, cứ 50 người làm một ấp, cấp cho lương ăn nửa
năm (2).
Lần
thứ ba, trong cuộc giao tranh lần thứ năm giữa họ Trịnh và họ Nguyễn (Ất Mùi
1655), quân Nam chiếm sâu đến mé sông Cả ở Nghệ Tĩnh, cưỡng bách nhiều đoàn dân
chúng tại đây vào khẩn hoang trong nam. Một số được đưa vào rải từ Thăng Hoa đến
Tuy Hoà, một số khác được đưa sâu vào tận đất Chiêm và Giản Phố Trại (thuộc Thuỷ
Chân Lạp). Nguyên do là chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) có gả một con gái (quận
chúa Ngọc Vạn) cho vua Chân Lạp Chey Chetta II; vì vậy năm Quí Hợi 1623, chúa
sai sứ sang Chân Lạp xin phép vua Chey Chetta II cho phép người Việt vào lập
nghiệp ở vùng đất Mô Xoài (gần Bà Rịa ngày nay) (3). Đây là những người Việt đầu
tiên đặt chân đến vùng đất Lục Tỉnh sau này vậy. Trong số những người dân bị cưỡng
bách đi Nam đợt này có cả tổ tiên Nguyễn Huệ bị đưa vào thực dân ở ấp Tây Sơn
Nhất, huyện Qui Ninh (thuộc Qui Nhơn) (4).
Lần
thứ tư, vào năm Mậu Dần 1698, cuộc chiến Nam Bắc kết thúc thì cũng vừa lúc nước
Chiêm bị chúa Nguyễn thôn tính trọn, mở rộng cương giới đến đồng bằng sông Đồng
Nai. Quốc Chúa (Nguyễn Phúc Chu) sai Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược xứ
Cao Miên, đem xứ Đồng Nai làm dinh Trấn Biên, lập làng, lập ấp, định thuế khoá.
Trong dịp này, ông đã chiêu tập thêm những lưu dân từ châu Bố Chính trở vào
Nam, lập ra được hai huyện là Phước Long (Biên Hoà ngày nay) và Tân Bình (địa
phận Gia Định và Sài Gòn bây giờ). Nhờ thành tích này, ông Chưởng Cảnh được
phong Lễ Tài Hầu. Sách Gia Định thành
thông chí của Trịnh Hoài Đức có ghi lại cụ thể về lần mở đất di dân này như
sau: “Mùa xuân năm Mậu Dần, đời vua Hiển Tông, Hiến Minh Hoàng Đế sai Thống Suất
Chưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh lược... lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định
Phủ... Đất đai mở rộng ngàn dặm và dân số hơn bốn vạn hộ, chiêu mộ những lưu
dân từ Bố Chính châu trở vô nam đến ở khắp nơi, đặt ra phường ấp xã thôn; chia
cắt địa phận, mỗi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh thuế điền và
lập bộ tịch đinh điền” (5). Lê Quý Đôn cũng viết về sự kiện này như sau: “Đất Đồng
Nai thuộc phủ Gia Định, từ các cửa biển lớn nhỏ như cửa Cần Giờ, cửa Sài Lấp đi
vô chỉ toàn là rừng rậm hoang vu, mỗi đám rừng rộng cỡ đến hơn nghìn dặm... Nhà
Nguyễn chiêu mộ những người có vật lực từ các xứ Quảng Nam, phủ Điện Bàn, phủ
Quảng Nghĩa và phủ Qui Nhơn thiên cư vào đó...” (6).
Qua
năm sau, Kỉ Mão 1699, vua Chân Lạp phản trắc, chúa Nguyễn cử Lễ Tài Hầu làm thống
soái đi chinh phạt. Thắng trận trở về, cánh quân di chuyển theo đường Châu Đốc,
An Giang về đến Vĩnh Kim (Định Tường) thì quan thống soái bị bệnh nặng, mất tại
đây (tháng 5 năm Canh Thìn 1700).Trên lộ trình rút quân từ Hậu Giang về Tiền
Giang, nhiều thương bệnh binh và cả quân sĩ đã đào ngũ hoặc được giải ngũ, ở lại
lập nghiệp dọc theo vùng đất miệt vườn ngày nay (7).
Qua
những làn sóng di dân kể trên, ba lần đầu chủ yếu là đưa dân vào khai khẩn vùng
đất từ Quảng Nam vào đến Bình Định bấy giờ. Chỉ lần thứ tư mới đưa dân vào khai
khẩn miệt Biên Hoà, Gia Định, đồng thời cấy một đợt di dân đầu tiên cho vùng đất
sau này sẽ gọi là miệt vườn. Mà việc
này chỉ mới xảy ra ở vào những năm cuối thế kỉ XVII.
Như
vậy có phải chăng là đến lúc đó mới có người Việt sinh sống ở vùng đất mà sau
này gọi là Lục Tỉnh? Sự thật xem ra không phải thế. Qua nhiều tài liệu rải rác,
có thể khẳng định là trước khi các chúa Nguyễn chính thức thiết lập chính quyền
ở những vùng đất mới thì ở đó đã có sẵn dân Việt di cư đến trước. Chẳng hạn như trường hợp vùng đất Biên Hoà,
mãi đến năm 1698 mới thiết lập chính quyền đại phương ở đó nhưng người mình đã
có mặt sẵn hàng thế kỉ trước rồi. Bằng chứng là từ năm 1658, khi vua Chân Lạp
xâm phạm biên cảnh, phó tướng Trấn Biên Dinh (lúc ấy là Phú Yên) được lệnh đem
quân trừng phạt, bắt được vua Chân Lạp đem về Quảng Bình, sau tha cho về nhưng
bắt phải cam kết “không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương” (8). Một câu
khác gần đó còn xác nhận rõ hơn: “Khi ấy địa đầu Gia Định là Mô Xoài và Đồng
Nai đã có lưu dân của nước ta đến ở chung lộn với người Miên để khai khẩn ruộng
đất” (8).
Một
trường hợp khác: trong đợt rút quân từ Nam Vang về, đạo quân đông đảo của Nguyễn
Hữu Cảnh đã giảm sút rất đáng kể, đó là điều khó hiểu khi chính họ vừa thắng trận
trở về. Hẳn là sự kiện đào ngũ hay giải ngũ như vừa nhắc đến ở trên chỉ là cái
cớ để che giấu mưu đồ của chính quyền Đàng Trong là cấy người ở lại để kinh
dinh đất mới. Hẳn là những binh sĩ gốc hai huyện đó đã thấy tận mắt cảnh đất và
cuộc sống của những lưu dân đang ở sẵn đấy từ trước nên đã rời đội ngũ mà ở lại
sống chen lẫn với họ. Đó là diễn tiến ôn hoà nhưng hữu hiệu của quá trình ‘nam
tiến’ của người Việt vậy. Quá trình đó đã định hình từ những thời kì xa về trước,
nhưng đến thời các chúa Nguyễn thì rõ nét: ban đầu là một số lưu dân có thể bị
phát vãng đến để an trí hoặc là để trốn sưu lậu thuế; rồi đến những đợt di dân
có chủ ý của nhà nước, hoặc là mở chiến tranh bình định biên giới để xác lập
tình thế lấn chiếm đất đai; sau cùng mới tiến lên lập dinh định phủ khi đã có
đông đảo dân chúng lập nghiệp ở vùng đất mới. Đến khi vùng đất có tên là Tầm
Phong Long được sáp nhập vào lãnh địa Đại Việt để trở thành Tân Châu Đạo, Châu
Đốc Đạo và Đông Khẩu Đạo (1757), cuộc nam tiến đã kể như hoàn tất, người Việt
chính thức làm chủ nhân ông vùng đất nơi đã chôn vùi nền văn minh Óc Eo rực rỡ
xa xưa. Miệt Vườn đã là đất của người Việt.
Biết
được quá trình di dân lập nghiệp một cách khái quát như trên thật ra cũng chưa
cho ta hình dung cụ thể dáng vẻ riêng của cộng đồng người Việt thuở ban đầu ở
vùng đất mới. Nhìn kĩ hơn vào thành phần những người Việt tiền phong này sẽ cho
ta một ấn tượng rõ nét hơn về con người và sản phẩm văn học của họ tạo sinh
trong khung cảnh sống này. Chính những người dân cụ thể ấy, khi rời vùng đất Bố
Chính nghèo khó để xuôi nam, đã không chỉ mang theo trần trụi một thân phận
xiêu lạc để tìm một cuộc sống no đủ mà còn mang theo cả vốn liếng văn hoá của
truyền thống để tạo dựng một cơ đồ cho con cháu. Nhưng đó là chuyện về sau. Còn
chính bản thân họ, những người Việt tiền phong trên những vùng “kinh tế mới” ấy
là những ai?
Trước hết, đó là những người
tử tội bị lưu đày phát vãng. Luật Hồng Đức đã định lệ lưu viễn châu (thường là
những miền đất ma thiêng nước độc hoặc là vùng đất biên ải). Vào những buổi đầu,
một vùng đất mới tiếp thu thường là nơi phát vãng những phần tử bị xem là nguy
hiểm cho xã hội; cho nên sau khi biên giới phía nam đã mở xuống tận phủ Hoài
Nhơn (Bình Định) thì vua Thánh Tông nhà Lê định lệ rằng những kẻ phạt tội lưu cận
châu thì phải sung về quận ở Thăng Hoa (Quảng Nam), lưu ngoại châu thì sung về
quận Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), lưu viễn châu thì sung vệ quân ở Hoài Nhơn.
Cuộc chiến tương tàn kéo dài
hàng hai trăm năm, trong đó đến bảy trận đánh lớn trong vòng 45 năm trời
(1627-1672) đã làm điêu linh không biết bao nhiêu gia đình vì chết chóc, tàn
phá và đói khổ. Nhưng có lẽ lớp người khốn khó nhất vì chiến tranh phải kể đến
trước hết là binh lính. Cho nên hiện tượng đào ngũ không phải là chuyện khó hiểu,
và nơi trú ẩn cho những người trốn lánh không gì hơn là những vùng đất xa xôi
hoang vắng ở tận cuối trời Nam. Một người Pháp đã ghi lại một chi tiết quý giá về hiện tượng loạn lạc của xã hội Đại Việt
trong thời kì chiến tranh: Ở trang nhật kí ngày 14 tháng giêng năm 1750, sau
khi kể lại rằng ông đã gặp dọc đường hơn hai trăm người nông dân bị gông cổ dẫn
về Huế sung quân, đã nhận xét về quân đội chúa Nguyễn ở Đàng Trong như sau:
“Nhà vua hiện nay chỉ có binh lính bằng cách sử dụng bạo lực. Nhiều binh sĩ đào
ngũ và trốn vào Đồng Nai vì họ không được trả lương và vì cơ cực quá. Nạn đào
ngũ đã xảy ra như cơm bữa nên chẳng còn biết có thể trấn áp bằng biện pháp nào,
cho nên hễ có tóm được một đào binh thì cũng chỉ phạt y một vài đòn roi tượng
trưng” (9). Mấy giòng nhật kí này cộng vào những ghi chép trong sách cũ của
chúng ta đã nói đủ về một thành phần thứ hai trong cộng đồng người Việt đi tiên
phong ở vùng đất mới.
Một thành phần khác trong số
những người Việt đến ở vùng đất miền nam chính là binh lính và gia đình họ. Muộn
nhất thì cũng là để trấn biên ải và bảo vệ dân đinh; sớm nữa thì như trường hợp
đạo quân của Nguyễn Hữu Cảnh, trên đường rút quân về, một số đông đã bỏ ngũ hoặc
giải ngũ để ở lại khai khẩn cuộc đất mà họ vừa đi ngang qua. Hẳn là họ phải được
nhà chúa tán trợ hành động này nếu không muốn nói là chính triều đình Đàng
Trong đã ngầm chủ trương như thế. Cứ lấy trường hợp vùng đất Cái Sao (Hậu
Giang), nguyên trước là vùng đất hoang vu không người, năm 1700, đạo quân quan
chưởng cơ trở về qua đó dừng chân lại một thời gian ngắn chừng một tháng thôi,
sau đó không lâu trở thành một vùng đất thuộc do người Việt khai thác.
Cũng không thể quên thành phần
khác nữa trong đám người vào sinh sống tại những vùng đất mới: đó là một số nhỏ
những nhà có của ở miền Trung muốn tìm nơi để phát triển mở mang sản nghiệp, đã
phiêu lưu về vùng đất phía nam. “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ cửa biển trở
vào toàn là rừng rậm trải hơn nghìn dặm. Chúa Nguyễn ... chiêu mộ những dân có
vật lực ở các phủ Điện Bàn, Quảng Nghĩa, Qui Nhơn (xứ Quảng Nam) di cư đến, chặt
phá cây cối, cắt cỏ rậm, khai phá thành đất bằng, đất đai màu mỡ, cho họ tự tiện
chiếm lấy lập vườn, trồng cau, làm nhà” (6).
Trong số những thành phần cư
dân vừa kể, có phần chắc là số lưu dân chiếm phần không nhỏ. Hoàn cảnh xã hội
đàng trong vào những năm chiến tranh căng thẳng không được sáng sủa cho lắm:
thuế khoá cao, bắt lính liên miên, quan lại ức hiếp nhũng nhiễu dân lành...
“Như việc thuế khoá, trấn Thuận Hoá đã có pháp lệnh phiền phức, các nhân viên đốc
thuế lại đông, những kẻ cùng đinh nghèo khó thường cay cực vì sưu cao thuế nặng...
(10) Tại hai trấn Thuận Hoá và Quảng Nam, nạn quan lại tham nhũng càng ngày càng
quá đáng. Sự nhũng nhiễu của đám quan lại lớn bé, của bọn phu hồ đã khiến cho
những kẻ nghèo khó phải buộc li hương xiêu tán vào chốn phương nam hoang vu.
Trong một tờ trình lên chúa Nguyễn Phúc Khoát năm 1750, Nguyễn Cư Trinh có mô tả
cảnh sống của dân Quảng Nghĩa nhưng cũng có thể xem là khái quát cảh sống của
dân chúng Đàng Trong thời tao loạn: “Dân đến Quảng Nghĩa chịu thống thuộc nhiều
nơi, đã chịu lệnh của nha trường điền tô, lại chịu lệnh của các nha biệt tải,
biệt nạp, lại còn chịu lệnh của các nha sai viên vi tử, nha sai viên đầu nguồn,
chịu lệnh ban phủ rồi lại chịu lệnh nha môn, chịu lệnh sai nhân rồi lại còn chịu
lệnh bọn thợ săn ngang dọc, há chẳng phải cảnh mười con trâu mà đến chín kẻ
chăn? Nghèo khó, thất nghiệp, thật là đáng tội nghiệp” (10). Nguyễn Cư Trinh có
nói đến số lượng đông đảo những hạng dân
lậu và phân biệt làm hai loại: một loại là dân vì trốn thuế mà phải đi lang
thang, một loại khác vì đói khổ mà phải xiêu tán. Trong cảnh huống ấy, tội phạm
hẳn là nhiều, dân nghèo khó đành phải bỏ cửa nhà làng xóm mà lưu tán khắp nơi.
Tóm lại, trong đám người di
dân vào vùng đất mới phương nam trong khoảng thế kỉ XVII và XVIII, có nhiều
thành phần phức tạp: Những tù nhân bị lưu đày, những người trốn lánh binh dịch
hoặc đào ngũ, những nông dân cùng khổ không sống nổi nơi xóm làng mà phải phiêu
linh; cũng có một số ít nhà có của hưởng ứng lời kêu gọi của nhà chúa mà đi mở
đất làm giàu, nhưng chủ yếu vẫn là dân nghèo khó phải thất sở li hương kiếm ăn
– mà sách cũ gọi là “lưu dân”. Lớp
người này đã tìm thấy ở vùng đất mới nơi biên viễn là nơi dung thân tương đối
lí tưởng.
*
Trên đây là phác họa đôi nét
về hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của vùng đất mới phía nam trong những buổi đầu,
qua đó nổi bật lên hiện tượng tụ tập của những người lưu dân tiền phong vào
khai phá vùng đất trẻ mà sau này sẽ gắn chặt với đất mà họ đã chọn làm quê
hương. Thời thế - hay là hoàn cảnh chính trị xã hội vào những thế kỉ loạn lạc
điêu linh của hai miền tổ quốc (thế kỉ XVI-XVIII)- với những cuộc đổi thay triều
đại liên miên, kéo theo đó là cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các tập đoàn vua
chúa đương thời, đã là cơ duyên cho việc mở mang bờ cõi đất nước về phương nam.
Thật vậy, trong khi xã hội văn vật Đàng Ngoài đang trên triền dốc khủng hoảng
thì tận địa đầu phương nam, cương giới cứ mở dần theo chiến lược tàm thực, tạo
tiền đề cho một cơ duyên lịch sử đặc biệt khác về sau: làm trẻ lại khuôn mặt xã
hội bằng một lực lượng quần chúng mới sinh hoạt trong khung cảnh văn hoá tương
đối cởi mở hơn so với đất Thăng Long thời buổi ấy đang trở nên bệnh hoạn già
nua. Sự ra đời của một vùng đất mới đã kéo theo nhiều hệ quả khác về mặt giá trị
ăn hoá tinh thần. Những yếu tố của khung cảnh thiên nhiên và hoàn cảnh lịch sử
xã hội sẽ tác động mạnh mẽ và sâu sắc với tiến trình văn hoá của người dân trên
vùng đất mới. Qua ba trăm năm, văn hoá của vùng đất trẻ trung này đã định hình
rõ nét, thể hiện ra ngoài trong cách ăn lối mặc, lề lối qui hoạch nhà cửa, tổ
chức xóm làng... thể hiện ra ở quan niệm sống hào sảng bộc trực phóng khoáng, ở
quan niệm về thẩm mĩ hướng về sự giản dị, chân tình. Văn hoá của vùng đất trẻ
này còn thể hiện qua các sáng tác văn học nghệ thuật phản ánh trung thực con
người và cuộc sống ở vùng quê mới.
Lịch sử khá trẻ trung của
vùng đất mới phương nam có thể là một thiệt thòi, vì ba trăm năm có lẽ chưa đủ
để mọi giá trị văn hoá của phương nam được trau chuốt thành qui củ ổn định. Thật
vậy, ngôn ngữ văn học miệt vườn chẳng hạn chưa được tinh tế nhã luyện như ở
Đàng Ngoài. Cũng là bày tỏ tình yêu, văn học dân gian ở vùng đất văn vật nghìn
xưa thể hiện như thế này:
Bây
giờ mận mới hỏi đào
Vườn
hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận
hỏi thì đào xin thưa
Vườn
hồng có lối nhưng chưa ai vào
Hình ảnh kín đáo bóng bẩy đã
phong kín vẻ ý nhị cuả lối ướm hỏi, đến độ như là những con người đang yêu nhau
kia đang nói chuyện trời mây trăng gió ở đâu đó. Phong cách đài các của ngôn từ
trong ca dao đàng ngoài đã đến mức ‘cổ điển’, cho nên có thể là khi nói “áo anh sứt chỉ đường tà”, Hữu Loan không
có ý nói về một chiếc áo sứt chỉ đường tà nào cụ thể mà chỉ gợi lại kiểu tỏ
tình ý nhị của chàng trai trong ca dao đàng ngoài: “Hôm qua tát nước đầu đình...” Cũng vì ngôn từ ca dao miền ngoài đã
trở nên ‘cổ điển’ nên có người cho là tình cảm của con người ở đàng ngoài như bị
khuôn khổ, qui tắc của những chuẩn mức nặng tính cách qui phạm, cho nên ca dao
miền bắc tinh diệu thật đấy, nhưng không khỏi khuôn sáo, tiểu xảo. E rằng nhận
xét như vậy có phần quá đáng và thiên lệch, vì đã quá chuộng vẻ tự nhiên tươi sống
của kiểu dáng biểu hiện cảm xúc của người miền trong. Hãy xem họ thể hiện tâm
tình theo một cung cách khác xa:
Anh
thương em
Thương
lún thương lụn
Thương
lột da óc
Thương
tróc da đầu
Ngủ
quên thì nhớ
Thức
dậy thì thương...
Thương
sao thương quá bất nhơn
Bữa
nay gặp mặt thương hơn bữa nào!
Ngôn từ thật là sượng, nhưng
khoẻ mạnh, ngồn ngộn chất tươi nguyên. Tính cách đó -nếu có thể gọi là tính
cách- là tính cách trẻ trung của vùng đất văn hoá mới còn non trẻ quá nếu so với
tuổi hơn bốn nghìn của vùng đất văn vật Thăng Long. Chính đặc tính này cắt
nghĩa tại sao nhiều câu ca dao miệt vườn dài thậm thượt, vần nhịp lỏng lẻo vô
cùng. Ca dao ở miền này chỉ mới ra đời chưa quá ba trăm năm, nghĩa là chưa đi
quá tuổi thơ ấu nếu so với tuổi tác văn học những miền ngoài. Thể thơ ổn định của
ca dao nước ta là thể lục bát mềm mại đã trở thành cái vỏ nghệ thuật của một tỉ
lệ lớn tuyệt đối các câu ca dao miền ngoài. Tỉ lệ đó không còn nữa ở ca dao miệt
vườn. Khuynh hướng nới lỏng nhịp điệu cân phương gọn gàng của câu thơ lục bát
tăng lên dần nếu ta so sánh giữa ca dao miệt hai huyện và ca dao miệt vườn. Bảng
đối chiếu dưới đây lập thành từ cứ liệu thống kê trong sách Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc và
trong số hơn 800 câu ca dao miệt vườn mà chúng tôi thu thập tại miệt vườn:
Tục ngữ phong dao
|
ca dao
miệt vườn (808 bài)
|
|
Thể thơ lục
bát
|
703
(87%)
|
338
(39%)
|
Lục bát biến
thể
|
60
(7.5%)
|
508
(54%)
|
Thể thơ khác
|
45 (5.5%)
|
18
(0.2%)
|
Qua những phân tích trên
đây, chúng ta hiểu thêm được rằng ca dao miệt vườn là một gia sản mới mẻ, chưa
có đủ điều kiện thời gian để tự trui luyện nó trở nên tinh nhã. Sự khác biệt có
ý nghĩa về tỉ lệ các câu lục bát hoàn chỉnh và các câu biến thể trong bảng trên
đã nói khá rõ sự phóng túng về vần, nhịp của câu ca dao miệt vườn. Nhìn từ trạng
thái tĩnh thì có thể bảo rằng đặc tính này là nét đặc thù của ca dao miệt vườn,
mà nhìn từ chiều kích thời gian thì có thể nói được rằng ca dao miệt vườn là sản
phẩm của lịch sử ngắn ngủi của miệt vườn để lại. Giá mà lịch sử kéo dài thêm
cho miệt vườn có nhiều thời gian tô chuốt các câu ca bài hò! Nói như thế tức là
đã thừa nhận sự kiện là ca dao miệt vườn hình thành và phát triển tự nhiên như
ca dao các vùng đất khác mà thôi: Những dáng riêng của ca dao miền này được định
hình như hôm nay thật ra cũng có thể tìm thấy ở ca dao bất cứ địa phương nào.
Nói một cách khác, ca dao miệt vườn đã không đủ thời gian cần thiết để tự hoàn
chỉnh nghệ thuật cho nó chứ không phải tự thân ca dao miệt vườn muốn dừng lại ở
trạng thái lỏng lẻo vần điệu như hiện nay.
Ở trên đã nói nhiều đến
thành phần cư dân buổi đầu của vùng đất mới phương nam. Đây là một cộng dồng
kém may mắn nhiều mặt. Cuộc sống cơ cực trong một xã hội nghèo đói loạn lạc đã
khiến cho bao nhiêu nỗ lực của con người chỉ còn thu nhỏ lại và chuyện miếng
cơm manh áo. Những người đi khai hoang không phải là đã tìm thấy ngay thiên đường
ở vùng đất trắng xa lạ. Bao nhiêu mồ hôi nước mắt đã chan lên số phận những lớp
lưu dân tiền phong. Vốn liếng văn hoá tinh thần đem theo từ vùng đất cũ chỉ là
chút trí nhớ mà lắm khi cũng phải được đánh giá lại từ kinh nghiệm thực tế khắc
nghiệt. Cho nên không lạ gì miệt vườn đã hình thành những khuôn thước mới
khoáng đạt hơn cho những giá trị văn hoá dân tộc ở vùng quê mới. Tư tưởng nho
gia chẳng hạn có bớt giáo điều hơn tại miệt vườn nếu so sánh với đất thần Kinh
hay Thăng Long văn vật. Nhưng đó lại là chuyện của những thế hệ con cháu về
sau. Riêng những thế hệ đầu tiên đến miệt vườn, khó có thể nói rằng quê hương mới
lại có ngay những tiện nghi văn hoá cho họ: không có thầy đồ dạy học, mà cũng
không chắc có được sách vở chữ nghĩa trong mớ hành trang nghèo nàn họ mang đi từ
khi rời bỏ xóm làng quê cha. Ta không quên rằng trong xã hội cũ, các thầy đồ đã
đóng vai trò sứ giả văn hoá tại địa phương: Chính họ là những quan viên quan họ
- hay ít ra cũng là ‘thầy nhắc tuồng’ cho các ‘liền anh liền chị’ – trong các hội
mùa ở Bắc Ninh hay Nghệ An; chính họ là tác giả những áng văn lưu hành trong
dân gian; cũng chính họ là người rao giảng chữ nghĩa thánh hiền trong các pho
kinh-sử-tử-tập cho nhiêu thế hệ thư sinh. Thế mà họ không phải là những con người
dễ tìm thấy ở những nơi hẻo lánh sơn cùng thuỷ tận như miệt vườn những buổi đầu.
Lưu dân là những người đã phải ứng tác lấy các câu ca bài hát cho chính họ để
thoả đáp nhu cầu tinh thần mà chính họ thấy cần được bù đắp trong suốt những
chuỗi ngày dài hẩm hút nơi cuối trời lận đận. Trong hoàn cảnh như thế, không có
gì là đáng ngạc nhiên khi ca dao miệt vườn còn lưu lại đến nay có nhiều câu mà
một nhà sinh trưởng ở miền nam- ông Sơn Nam- đã phải bảo là ‘dốt hay nói chữ’
(7) vì đã dùng sai nghĩa một từ Việt Hán, trưng dẫn sai một điển xưa tích cũ.
Tìm hiểu ca dao miệt vườn,
có một điểm rất dễ nhận thấy là câu ca dao thường không chau chuốt, không thuần
nhã so với ca dao những vùng khác có truyền thống văn học lâu đời. Các câu hát
ra đời ở miệt vườn thường nghèo hình tượng, thô sơ mộc mạc như chưa đi qua mức
tự nhiên của hệ thống ngôn ngữ công cụ. Thuật ngữ văn học Trung Hoa có phú, tỉ và hứng để chỉ ba thể cách sáng tác ca dao; tính hình tượng tăng dần từ
hứng sang tỉ và đạt đến mức tinh tế nhất là phú, trong đó cảnh và tình quan hệ biện chứng sinh thành một cách ý
nhị, kín đáo, sâu sắc. Các câu hát theo thể hứng
trong ca dao miệt vườn chiếm tỉ lệ khá cao. Nếu ca dao là những câu hát sơ khai
thì ca dao miệt vườn là những câu ca đang còn ở mức sơ nguyên nhất, chưa trải
qua nhiều công phu lọc lõi của nhiều thế hệ. Nếu ca dao là những đứa trẻ ra ngõ
lần đầu thì ca dao miệt vườn là những đứa trẻ rụt rè bỡ ngỡ vô cùng.
Những non yếu về nghệ thuật
sáng tác đề cập đến ở đây – nói cho cùng- chỉ là hệ quả tất yếu của hoàn cảnh lịch
sử đặc biệt của vùng đất mới phương nam này.
Ra đời trong bối cảnh sinh
hoạt không mấy thuận lợi về sinh hoạt văn học nghệ thuật, ca dao miệt vườn càng
tỏ ra có giá trị và đã tự xác lập vị thế của nó trong hoàn cảnh sinh hoạt của
con người nơi đây. Nhu cầu giải trí, tiêu khiển là nhu cầu tự nhiên và cần thiết;
cho nên những thế hệ lưu dân đến ở vùng đất mới đã làm sống dậy tiềm thức tập
thể dân tộc khi chế tác những câu hát mới, hoặc nếu may mắn còn nhớ lại mơ hồ
những câu hát cũ ở quê nhà mà họ được nghe từ lúc còn nằm trong nôi. Tất cả chỉ
là để thoả nhu cầu tiêu khiển sau những buổi làm việc mệt nhọc vì miếng cơm
manh áo nơi vùng quê mới.
Lại nữa, nhu cầu diễn đạt
tình cảm lắm khi cũng thôi thúc đứa con xa xứ phải ứng tác, phải tâm sự, phải
trần tình, cho vơi nỗi nhớ quê nhà mà họ biết là còn giữ rất nhiều kỉ niệm một
thời họ không bao giờ có thể quên. Diễn đạt lòng mình, dù chỉ đê cho mình thôi,
cũng để thoả một nhu cầu rất lớn của sáng tác văn học nghệ thuật. Bởi vì cội
nguồn của văn nghệ chính là ở tình cảm của chúng ta đó thôi; tình cảm thì chẳng
biết chia giàu nghèo sang hèn. Những con người lưu xứ buổi đầu bị đẩy vào thế
cùng, đành phải vong gia thất sở phiêu bạt đến xứ xa như thế, thì nhu cầu văn
nghệ là nhu cầu tự nhiên họ phải tự vượt thắng những trở lực về kiến thức và kĩ
năng để vươn lên làm chủ đời sống văn học của chính mình tại quê mới. Cứ thế,theo
với ngày tháng cùng sự phát triển của cộng đồng quần cư nơi đất mới, dần dà những
ngày hội hè, những buổi hò hát đầy kịch tính cũng được tổ chức, đưa sinh hoạt
văn học nghệ thuật tiến thêm những bước mới về chất lượng.
Cuối cùng, cũng không nên
quên là cái nền của mọi sinh hoạt văn nghệ miệt vườn là khung cảnh ruộng đồng
sông nước. Ở đây, sông nước mênh mông lại là một dữ kiện của hoàn cảnh khá đặc
thù để làm đà cho sự phát triển mạnh những câu hò lê thê như những con sông
không chỗ tới ở miệt vườn. Không ở đâu trên quê hương chúng ta mà có hân hạnh
làm chủ những câu hò dịu ngọt như thế.
Những nỗ lực như thế chính
là những sinh hoạt văn hoá đúng nghĩa nhất, vì nó là những công phu đưa cuộc sống
hàng ngày của con người vượt lên tình trạng tươi sống của tự nhiên để thành những sản phẩm chín mang đầy ắp dấu tích của tim óc chúng ta.
Đoàn Xuân Kiên
Thế Kỷ 21 số 32 (th. 12/1991), tr. 1--15
(1) Đại Nam Nhất Thống Chí,
tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà
(2) Đại Nam Thực Lục Tiền Biên,
q. III
(3) Xem: Tân Việt Điểu, “Theo dấu hai bà...” Văn Hoá Nguyệt San, số 43, tr.867 trở đi.
(4) Hoa Bằng, Quang
Trung, anh hùng dân tộc. Nxb Bốn Phương, Sài Gòn, tr.21-22.
(5) Gia Định Thành Thống Chí ,
q.III. tr. 9a
(6) Lê Quí Đôn,
Phủ Biên Tạp Lục, q.V, tr. 213a-b. Bản dịch của Lê Xuân Giáo. Phủ Quốc Vụ
Khanh Đặc Trách Văn Hoá, Sài Gòn, 1972.
(7) Sơn Nam, Nói
về Miền Nam. Nxb. Lá Bối, Sài gòn, 1965, tr42, tr.67.
(8) Gia Định thành thông chí
, q.III., tr 4a.
(9) Henrie Cordier, "Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine
- Journal d’un voyage à la Cochinchine" (29.8.1749 – 11.2.1750). Revue d'Extrême-Orient. Tome 4, tr. 489.
(10) Lê Quí Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, q.III, tr. 102a-b. Bản
dịch của Lê Xuân Giáo. Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hoá, Sài Gòn, 1972.
No comments:
Post a Comment