Saturday 4 January 2020




nói thêm về chữ i và y trong chính tả tiếng Việt
Đoàn Xuân Kiên



Tôi bắt đầu có ý kiến về chuyện i và y từ khi viết bài "Chữ quốc ngữ qua những biển dâu" (1991): http://www.xn--phtnh-s81bqb.com/2017/09/chu-quocngu-qua-nhungbien-dau-oan-xuan.html. Khi viết bài "Chữ i và y trong chính tả tiếng Việt" (1998): http://www.xn--phtnh-s81bqb.com/2017/09/chu-i-va-y-trong-chinh-ta-tieng-viet.html, tôi đã duyệt lại vấn  đề này từ góc nhìn lịch đại và đặt lại một vấn đề chuẩn hoá  chính tả. Có những học giả đây đó đọc bài của tôi lại xem đó là một thứ hô hào "cải  cách", "cải tiến"  - điều tôi không hề nghĩ tới. Có những người khác lại mải miết đem một số kiến thức giáo khoa ngữ học ra có ý thể thao chữ nghĩa cho vui câu chuyện. Liên tiếp trong mấy bài viết, tôi chỉ nhìn lại những bất nhất trong chính tả hiện hành do thiếu tôn trọng những quy ước của chính hệ thống chính tả hiện hành. Thế thôi. Và tôi quy trách nhiệm lên ba thành phần xã hội: nhà  nước - thông tấn & xuất bản sách báo - nhà trường, trong việc thả nổi chính tả tiếng Việt đã rất lâu dài. Thay vì cùng nhìn lại nghiêm chỉnh một vấn đề tồn tại do chính sự vô trách nhiệm của xã hội chúng ta thì có những người gọi là trí thức chỉ làm rối nát thêm để chạy tội cho nhà nước và cho chính họ. Một chứng liệu mới nhất là quyển sách của Cao Tự Thanh về chuyện iy. Người viết thiếu kiến thức về ngữ học, không hiểu lịch sử chữ quốc ngữ, cũng chẳng hiểu gì về hoạch đinh chính sách ngôn ngữ quốc gia, nhưng lại cao ngạo và đưa đẩy chuyện chuẩn hoá chính tả vào hoả mù. (Xem: Cao Tự Thanh, I và Y trong chính tả tiếng Việt. Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2014)Quan điểm của tôi vẫn không thay đổi: cần một thay đổi tư duy của những kẻ có trách nhiệm chứ không nên và không thể quy trách nhiệm cho "chữ quốc ngữ". Những bài viết dưới dạng tranh biện dưới đây vừa tìm thấy lại cũng có thể xem như chút lòng gứi lại những người mai sau.


1.

Trên diễn đàn Talawas (1), anh Vũ Dũng có đặt lại vấn đề một số vấn đề liên quan đến chính tả tiếng Việt, trong đó có chuyện "I dài I ngắn". Trước anh, đã nhiều người bàn về chuyện chữ I và Y. Có người đề nghị thay đổi cách viết vì hợp lí hơn, có người cho rằng phải sửa lại cho đúng cách viết truyền thống. 
Trong bài viết khá công phu, anh Dũng đã tìm cách giải quyết vấn đề bằng lối dùng kĩ thuật vi tính để thay thế y bằng i trong một số cấu trúc vần. Cần nói ngay là biện pháp máy móc này không xác đáng, vì anh đã sử dụng một số cấu trúc rất hình thức, chẳng hạn: iay, iai… Kế nữa là thiết tưởng chúng ta không nên bàn đến chuyện "có cần thay thế, và có thể thay thế" hay không, mà nên giải quyết theo hướng: "tại sao phải sửa đổi một vài lối viết (chứ không nhất loạt thay thế) chữ và y ?"
Sách báo trong nước và hải ngoại thỉnh thoảng vẫn đặt vấn đề theo hướng nói trên. Chẳng hạn trong mục "Bạn Đọc Viết" trong tập san Thế Kỷ 21 số 111 (tháng 7.98) có đăng ý kiến một độc giả về chuyện này. Đại khái các ý kiến có thể tóm trong mấy ý như sau: (1) viết i trong một số trường hợp "làm vướng mắt người đọc"; (2) cách viết đổi y thành i là sự cưỡng bức từ nhà nước Hà Nội đối với miền Nam; (3) viết i trong một số trường hợp là cải cách hay một cách viết cho "lạ" để độc giả chú ý đến bài viết hoặc tờ báo. 

Để trả lời những thắc mắc nêu trên, trước nay chúng ta thường nghĩ đơn giản như ban biên tập tạp chí Thế Kỷ 21 khi cho rằng: (1) tiếng Việt có thể chấp nhận cả I và Y trong một số trường hợp; (2) "và cũng không có luật chính tả nào quy định chữ nào thì phải dùng I, chữ nào phải dùng Y để diễn tả âm I"; (3) nhưng có một "trường phái" muốn thống nhất cho tiện; (4) "công việc vận động này đã có từ ba bốn thập niên, nhưng chưa tới đâu, vì tuy hợp lý nhưng không thắng được thói quen". 

Nói chung thì cho đến nay, người mình thường xem chuyện "I dài I ngắn" chẳng qua cũng chỉ là thứ nhiễu sự chữ nghĩa cuả mấy thầy đồ gàn.

2.

Trước hết, chúng tôi thấy cần đính chính rằng chuyện dài về chữ i và đã tròn thế kỉ rồi chứ chẳng phải là gần đây mới có chuyện này. Câu chuyện bắt đầu từ năm 1902. Năm đó có mở một Hội Nghị Khảo Cứu Viễn Đông, trong đó có một Uỷ ban xét việc sưả đổi chữ quốc ngữ. Uỷ ban này đã đệ trình một bản đề nghị lên chính phủ thuộc điạ để chuẩn y. Bản đề nghị rất dài cuả Uỷ ban này có nói đến việc sưả đởi cách viết chữ và y đại khái như sau: "Uỷ ban cũng nghĩ rằng ta phải bỏ hẳn thói quen mà vài tác giả vẫn có., trái với phương pháp do cố De Rhodes đặt ra, là thay y vào chỗ cuả i trong một số trường hợp (chẳng hạn kylymy) mà không có gì chứng minh được". Bài tường trình đầy đủ về những đề nghị cuả Uỷ ban sưả đổi chữ quốc ngữ này được đăng trong Kỉ Yếu Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. (Xem: "Compte-rendu du premier Congrès international des Etudes Extrême-Orient", in trong BEFEO, tome III, 1902, tr. 126-127.) Nói cách khác những nhà trí thức dạo ấy đã chủ trương khôi phục lại cách chính tả hai chữ i và mà họ xem là những nguyên tắc chính tả "truyền thống" từ thời mới hình thành chữ quốc ngữ.
Như thế thì chắc những vị đó không phải là những kẻ hiếu sự, thích lập dị để gây chú ý cuả công chúng đâu. Việc làm như thế hẳn phải là rất có ý thức. Sở dĩ gần một thế kỉ qua, việc chưa đi đến đâu, thì chẳng phải vì "không thắng được thói quen" đâu, mà là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là đất nước mình thiếu một chính sách ngôn ngữ hợp lí. Thật ra thì chuyện chính tả tiếng Việt đã tốn khá nhiều giấy mực, nhưng cho đến nay vẫn chỉ là giữa những người sử dụng chữ viết hoặc dăm ba nhà nghiên cứu mà thôi. Cuộc thảo luận chưa có nhiều cơ duyên đến với những người có trách nhiệm trực tiếp đến chính sách ngôn ngữ. Chính vì có sự can dự của những người làm chính sách nên mới có trường hợp nước Đức mà anh đưa ra như một minh chứng cho sự thành công của việc cải cách chữ viết.

Ai trong chúng ta cũng có thể đã hơn một lần để ý thấy những điều "bất hợp lí" trong cách viết chính tả tiếng Việt, vì chúng đi chệch khỏi nguyên tắc chính tả ghi âm của "chữ quốc ngữ". Một trong những điều bất hợp lí ấy là vấn đề chữ i và y. Trong số những điều bất hợp lí kia, có những điều đã đi vào tập quán ngôn ngữ: chẳng hạn, chúng ta có bài và bày, khi nói ra chỉ khác nhau ở âm chính a đọc bình thường, và ă là thể ngắn cuả a. Thế nhưng khi viết, thể ngắn cuả âm chính đã chuyển trách nhiệm về âm cuối i và để phân biệt a ngắn và a dài.
Tuy nhiên, cũng có những bất nhất tạo ra do sự nhầm lẫn hay tuỳ tiện của một số người biên soạn từ điển và sách báo. Để tiện theo dõi, xin bắt đầu từ cái mốc năm 1651. Năm 1651 đánh dấu sự ra đời của bộ từ điển Dictionarium Annamiticum-Lusitanum et Latinum (thường gọi là Từ điển Việt-Bồ-La) của Alexandre de Rhodes. (Xin xem các phân tích chi tiết trong bài viết "Chữ i và y trong chính tả tiếng Việt"http://www.xn--phtnh-s81bqb.com/2017/09/chu-i-va-y-trong-chinh-ta-tieng-viet.html).
Chúng tôi nhận thấy là ẩn dưới mớ bòng bong tùy tiện về cách viết hai chữ và y, có một nguyên tắc chung mà người viết chữ quốc ngữ từ thời Alexandre de Rhodes đến thời chúng ta đều thừa nhận. Nguyên tắc đó gồm có năm điểm như sau:

Chỉ viết y trong những trường hợp sau đây:
1.   khi tổ hợp âm / iê / ở đầu một tiếng. Ví dụ: yên, yêu, yết.
2.   trong các tổ hợp âm chúm môi / ui / và / uiê / (viết là uy, uyê, uya). Ví dụ: uy, chuyện, khuya, nguy, tuy.
3.   ở sau âm ngắn của a [ trong chính tả hiện nay cũng viết bằng đồ vị / a/ ] và âm ngắn của ơ [tức là đồ vị /â/ ]. Ví dụ: cay, dày, may, cây, đây, mây.

Chỉ viết i trong những trường hợp sau đây:
4.   khi âm / i / là nguyên âm, hay là phần âm chính của âm tiết. Ví dụ: ỉ, bí, chim, hí, kìm, lì, lính, sĩ, tị, vì, vinh.
5.   khi âm / i / là âm cuối, đứng sau phần âm chính ở thể thường, để khép âm tiết. Ví dụ: ngùi, đói, người, củi, hời, trai.

Xem thế thì không phải là tiếng Việt chúng ta không có "chuẩn" nào, không có nguyên tắc chính tả nào. Những ngoại lệ ít ỏi trong chính tả là những hiện tượng thông thường, ngôn ngữ nào cũng có. Nhưng hiện tượng i và y không thế. Chúng tôi nhận thấy là những hiện tượng bất nhất về i và y hoàn toàn là do sự tuỳ tiện kéo dài quá lâu.
Những tìm tòi vừa kể sẽ có ý nghĩa cho những ai có trách nhiệm (những người quản lí vấn đề chính sách ngôn ngữ quốc gia, báo chí & xuất bản, và nhà trường) để góp phần vào tiến trình chuẩn hoá ngôn ngữ. Có thể trong tương lai xa - khi chúng ta có được một chính quyền dân chủ thật sự, và các nhà chính trị biết lắng nghe người trí thức để có chính sách ngôn ngữ, có thể năm quy tắc kia sẽ được đặt trở lại nghiêm chỉnh chăng. Nhưng đó là chuyện về sau. Trong điều kiện hiện nay, năm quy tắc đó có thể rút xuống mức thấp nhất những rối rắm về chính tả chữ i và y mà nguyên nhân chính là việc dùng một đồ vị để ghi hai âm vị khác hẳn nhau: i/y đều dùng để ghi nguyên âm / i / và âm cuối / j /. Sự lẫn lộn này đã có từ thời De Rhodes chứ không phải hoàn toàn là do người đi sau.

3.

Trước nay các bộ từ điển tiếng Việt được biên soạn tuỳ theo quan điểm chính tả cuả các soạn giả. Duy có bộ Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức biên soạn (Trung Bắc Tân Văn xuất bản, Hà Nội 1931) là theo sát nguyên tắc chính tả chữ i và y như nêu ra trong Bảng trên đây. Uy tín và giá trị học thuật cuả bộ từ điển này đã góp phần rất nhiều cho những công trình tiếp nối về sau này.
Thời gian sau 1975, cuộc giao lưu văn hoá-xã hội lớn lao giữa hai miền Nam-Bắc đã tác động đến ngôn ngữ phổ thông rất nhiều. Và hẳn nhiên cuộc giao lưu này đã không tránh được nhiều chuyện lố bịch, trong đó có những kiểu dùng từ ngữ lạ tai so với thói quen ở trong Nam. Có lẽ cũng là tâm lí dễ hiểu khi có nhiều người ở miền Nam cho rằng lối viết chữ i và y "lạ mắt" là do sự cưỡng bức cuả chính quyền Hà Nội đối với công chúng miền Nam. Nhưng nói thế thật oan cho công phu của một số học giả Nam Bắc đã đi bước tiên phong trong việc "cải cách" chính tả mà chúng ta đang bàn ở đây.
Xin nhắc lại trường hợp đi tiên phong trong việc định chuẩn mực cho cách viết i và y trong bộ từ điển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội, 1931). Lật lại một số trang sách in tại miền Nam trước 1975 ta thấy một số tác giả in sách ở Sài Gòn đã có ý thức rất cao trong việc định "chuẩn" chính tả tiếng Việt. Từ nhà báo Nguiễn Ngu Í (một biên tập viên chính của tạp chí Bách Khoa nổi tiếng suốt thời kì 1956-1975), đến Gs. Trần Ngọc Ninh (nhà bác học Việt Nam, giáo sư y khoa và từng là Phó Thủ Tướng đặc trách văn hoá-xã hội năm 1965), từ Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê đến Hoàng Xuân Hãn, những vị này đã thật sự là những cánh én đầu muà đối với việc chỉnh đốn chính tả chữ quốc ngữ tại miền Nam suốt thời kì 1954-1975. Một vị khác tại miền Nam cũng bỏ rất nhiều công lao tìm hiểu và hô hào việc gìn giữ lối viết chính tả i và y suốt từ 1958 đến nay, là Nguyễn Khắc Xuyên.
Chúng tôi kê ra đây những quyển sách in của các vị vừa nhắc tên, trong đó các vị áp dụng lối viết chữ và y như nói đến ở đây. Nguiễn Ngu Í là tác giả quyển Sống Và Viết Với… do nhà xuất bản Ngèi xanh xuất bản tại Sài Gòn (1965). Trần Ngọc Ninh viết và giảng về văn hoá Việt Nam tại Đại học Vạn Hạnh (Sài Gòn). Hai công trình đã xuất bản là Đức Phật Giữa Chúng Ta (Lá Bối, 1972) và Cơ Cấu Việt Ngữ (Lửa Thiêng, 1973-74). Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê là tác giả bộ sách lớn: Khảo Luận về Ngữ Pháp Việt Nam (Đại Học Huế xb, 1963). Hoàng Xuân Hãn in quyển Bích Câu Kì Ngộ (Đại Học Huế, 1964). Nguyễn Khắc Xuyên đã nhiều lần xem xét vấn đề chính tả chữ i và y qua các bài viết của ông. Xem: Nguyễn Khắc Xuyên, "Chung quanh vấn đề thành lập chữ quốc ngữ" in Văn hoá nguyệt san số 39 (1959), tr. 167-177 và số 48 (1960), tr. 1-14, "Nguồn gốc hai chữ i và y trong quốc âm" in Văn hoá nguyệt san số 61 (1961) tr. 519-526, và gần đây nhất là bài "Về i hay y trong chính tả việt ngữ" in Văn học (California) số 75 (th.7.1992), tr.3-13.
Trang sách in và bài báo của các vị đều rất nhất quán với năm nguyên tắc ghi ở bảng trên đây. Trong khi đó thì tại miền Bắc không hề có một nhà trí thức uy tín nào làm một việc như thế. Dăm ba học giả tại Viện Ngôn Ngữ Hà Nội viết bài nghiên cứu, nhưng mấy quan chức ở Viện (chẳng hạn như ông viện trưởng Hoàng Tuệ) thì vẫn tuyên bố thản nhiên là có thể chấp nhận cả và y! (Hoàng Tuệ "i hay y ?", báo Văn Nghệ, số 46 (18/11/1995), tr. 5). Một nhà ngôn ngữ học nổi danh khác cũng mới lên tiếng trong bài nhận xét về chữ quốc ngữ của ông, đại khái là ông không chấp nhận có thay đổi gì cả. (Cao Xuân Hạo "Mấy nhận xét về chữ quốc ngữ" in trong tuyển tập Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Hà nội: nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 157-161). Ý chừng ông cho rằng trong ngôn ngữ, chẳng có gì qua thói quen tập thể? Nhưng mà nói cho cùng, nước mình mới thật sự dùng chữ quốc ngữ với tư cách là chữ viết chung cho cả nước, là kể từ năm 1945. Trước đó tiếng Việt còn chưa được kể là môn học chính thức, làm gì có thể gọi là có quy củ, có chính sách để có thể gọi một thói quen là thói quen tập thể? Tôi rất hoài nghi lập luận này, dựa trên một chứng cứ rất hiển nhiên: hai quyển từ điển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức và Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh cùng ra đời một năm (1931) mà lại theo hai thói quen trái ngược khi viết chữ i và y (chứ không phải là dùng tuỳ tiện, tự do như thường thấy).

Cho nên, mãi đến năm 1984 nhà cầm quyền Hà Nội mới ra quyết định về chính tả bằng quyết định 240/QĐ kí ngày 5.3.1984 thì phải nói đó là một quyết định đúng. Chúng tôi nghĩ rằng làm như thế là chính quyền đã phải công nhận việc làm của những người tiền phong ở miền Nam trước 1975 và những nhà tiền phong trước kia là đúng. Thế nhưng cũng rất là khôi hài nếu chúng ta biết được sự thật này: ngoài một số sách giáo khoa bậc phổ thông tiểu học và trung học, cho đến nay các trang sách báo in ở trong nước vẫn không thèm đếm xỉa gì đến nguyên tắc chính tả ghi trong Quyết Định vừa nói. Hãy cứ lật bất cứ trang sách báo in ở trong nước sẽ thấy rõ điều này. Cho nên chúng tôi tưởng là không riêng gì người mình ở hải ngoại không thấu suốt vấn đề như anh Dũng nghĩ đâu. Đấy là một vấn đề của chung cả nước, bao gồm cả trong nước lẫn bên ngoài. Đối với một vấn đề như thế này, chúng ta hãy thận trọng hơn khi quy "công lao" cho những người không có công trạng gì. Vả chăng, không phải cái gì "lạ mắt" cũng là "sản phẩm của Việt Cộng", của Hà Nội hết cả. Bộ từ điển Việt Nam Tự Điển (1931) nào có liên hệ gì đến Việt Cộng mà vẫn nhất quán lối viết chữ và y?

4.

Có người sẽ nghĩ rằng những chuyện như chúng ta đang bàn đây là việc cuả mấy ông hàn lâm chứ không phải việc của một vài cá nhân. Tuy nhiên, Viện Hàn Lâm là một cơ chế tổ chức của các vị trí thức giỏi chữ nghĩa, thì hiện nay chưa có. Và cứ cái chiều hướng như thế này, việc định chuẩn ngôn ngữ có lẽ cũng còn lâu lắm. Đất nước chúng ta hiện nay có hiện tượng lạ lùng là thả nổi ngôn ngữ, mạnh ai nấy đặt ra chữ nghĩa bất chấp luật lệ. Chẳng hạn kiểu dùng từ ngữ sặc mùi lính tráng trong ngôn ngữ hằng ngày: "tiến công vào trận địa khoa học". Hoặc kiểu nói chắp vá hán việt và thuần nôm: siêu sao. Hoặc nữa là hiện tượng sản sinh vô tội vạ loại tiếng lóng, kiểu như "anh ta còn máu lắm", "Sao mà Quát lắm thế ! Xin hãy Khiêm cho một tí !" … Cứ theo cái đà loạn ngôn ngữ như thế thì không lạ gì người mình đang 'choáng' trong những cơn say "bùng nổ" (?) phát triển, trong sinh hoạt báo chí người ta còn mải vinh danh các "siêu sao người mẫu" (!), người ta đua nhau sáng tạo từ ngữ bất chấp quy luật tạo từ của tiếng Việt. Liệu có thể trông mong gì lúc này một viện hàn lâm giúp đỡ cho thế hệ con em chúng ta hay chăng? Chúng tôi không lạc quan đợi viện hàn lâm đâu, vì rằng thế kỉ XX đã có rất nhiều cơ hội để các vị hàn lâm ngồi lại làm việc. Tiếc thay, bàn cãi thì nhiều mà một nghị quyết đủ thẩm quyền thì quá hiếm hoi. Liệu chúng ta có thể đợi các ông hàn bàn cãi thêm một thế kỉ nữa hay không ?
Tưởng cũng nên nói thêm là: chúng ta đang bàn chuyện chỉnh đốn chính tả tiếng Việt khỏi căn bệnh tuỳ tiện, chứ không phải là chuyện "cải cách chính tả", hoặc chuyện "thay đổi chữ viết". Không một ai có thể bắt ép một cộng đồng ngôn ngữ phải "cải cách" hay phải "thay đổi" một cách chấp định cả. Nếu chính tả tiếng Việt đã được định chuẩn qua thời gian thì chúng ta phải theo tập quán ngôn ngữ thôi. Nhưng trường hợp chính tả tiếng Việt khác rất xa trường hợp tiếng Anh hay tiếng Đức. Khi hô hào cải cách chính tả tiếng Anh theo kiểu những nhà cách mạng kiểu trường phái phiên âm quốc tế thì lố bịch là phải. Nhưng khi chúng ta bàn chuyện chỉnh đốn chính tả tiếng Việt thì đó là vấn đề khác hẳn.
Trong suốt ba trăm năm hình thành và phát triển, hệ thống "chữ quốc ngữ" chẳng lúc nào được san định chuẩn mực cả. Dọc dài ba thế kỉ XVII, XVIII và nhất là XIX, các nhà soạn sách và từ điển (phần lớn là người phương tây) tuỳ tiện theo thói quen của mình mà tạo ảnh hưởng lên thói quen quần chúng rải rác tại các xóm đạo hay chủng viện, rồi sau này là những trường dạy tiếng Việt tại địa phương. Đến năm 1945 tiếng Việt mới chính thức là chuyển ngữ trong xã hội. Các chính quyền tiếp nhau đều không đưa ra được một chính sách ngôn ngữ xác đáng. Các nhà trí thức cũng không quan tâm đúng mức đến cội nguồn vấn đề. Một tập quán 60 năm do kết quả của căn bệnh tuỳ tiện thì chưa thể gọi là một tập quán ngôn ngữ cần tôn trọng. Huống nữa, đối với vấn đề i và y thì không phải chỉ có một thói quen mà có nhiều thói quen cùng một lúc. Vậy thì phải định chuẩn trước khi đặt vấn đề tôn trọng chuẩn nào.
Việc sử dụng ngôn ngữ là của mọi chúng ta. Việc chăm lo giữ gìn nó là trách nhiệm chung của mọi người. Nếu người nghiên cứu có thể đưa ra những luận điểm xác đáng thì sẽ là những gợi ý tốt cho những ai quan tâm đến việc chính tả tiếng Việt (người quản lí chính sách ngôn ngữ, báo chí, nhà trường). Họ sẽ làm những phần việc tiếp theo trong phạm vi chức năng của họ. Những tìm tòi về ngôn ngữ như thế sẽ không là những việc làm vô ích, mà sẽ có góp phần vào việc thúc đẩy sinh hoạt ngôn ngữ tiến bộ. Trên bình diện quốc gia, một cải cách ngôn ngữ hợp lí vẫn có thể thực hiện được nếu có được một kế hoạch hoạt động nhịp nhàng giữa nhà nước, nhà trường và báo chí truyền thông. Về vấn đề này, đã có những kinh nghiệm từ các nước có đầu tư vào việc chuẩn hoá ngôn ngữ, trong đó có kinh nghiệm của một số nước thuộc thế giới thứ ba. (Xin xem: Rubin & Jernudd (eds) (1971) Can Language Be Planned? Honolulu: An East-West Center Book).

5.

Hiện nay thì bệnh tuỳ tiện dường như đã trở thành bất trị, cho nên có người đã đồng hoá bệnh tuỳ tiện này với "tập quán ngôn ngữ;" hậu quả là những người có trách nhiệm đều lẩn tránh trách nhiệm, thả nổi việc sử dụng ngôn ngữ. Chính sự kiện thả nổi tuỳ tiện này đã dẫn đến những lúng túng cho những ai quan tâm đến giáo dục lớp trẻ - nhất là lớp trẻ tại hải ngoại.*
Đoàn Xuân Kiên
Talawas, ngày 01/07/2002

(1) Xem: Dũng Vũ, "Tiếng Việt - Vài vấn đề chữ viết". Talawas, ngày 22/06/2002http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=53&rb=06


* Sau khi tôi viết bài "Nói thêm" trên đây, anh Dũng Vũ lại có bài thảo luận thêm nữa.  Xem: Dũng Vũ, "Trả lời anh Đoàn Xuân Kiên về "y" và "i". Talawas, ngày12/7/2002. Vì thế lại có bài "thảo luận" dưới đây. Xin tham khảo bài viết của anh Dũng Vũ trên trang talawashttp://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=54&rb=06




Thảo luận cùng anh Vũ Dũng
Đoàn Xuân Kiên


1. Mới đây anh Vũ Dũng có viết bài gọi là để trả lời tôi về vấn đề chính tả chữ i và y. Anh cho rằng bàn về ngôn ngữ thì cần chính xác và khoa học. Trên tinh thần mà anh muốn đề nghị, tôi cũng xin bàn thêm về bài "nói thêm" đã phổ biến trên Talawas hôm 1/7/2002.

Trước tiên, tưởng cũng nên nói lại cho rõ là trước nay khi bàn về chuyện chính tả "i dài i ngắn", tôi không nghĩ là có ai lại muốn tạo cơn bão trong tách trà. Sự thực là nó có vấn đề, và từ trăm năm nay đã xảy ra nhiều đợt thảo luận rồi. Cho nên hôm nay chúng ta có kế thừa vấn đề này thì cứ bàn luận thêm để phát triển những tìm tòi mới. Không nên vừa bàn về nó lại vừa cho rằng vấn đề này không đáng bàn. E thiếu tinh thần khoa học. Sau nữa, anh cho rằng tôi xem xét vấn đề nghiêng theo hướng ngữ âm học. Đây là sự hiểu lầm, vì bài của tôi bàn về một vấn đề chính tả. Tuy bàn về vấn đề chính tả (nghĩa là viết đúng theo một chuẩn mực nào đó), tôi xem xét vấn đề có phần khác những vị khác ở chỗ là tôi nhìn vấn đề dưới ba khía cạnh:
(a) trước hết là đặt nó vào trong chiều lịch sử để cố nhận ra sự lộn xộn trong lối viết chữ i và y qua thời gian kể từ thời các nhà sáng chế chữ quốc ngữ;
(b) kế đó là tôi cần xem lại vấn đề chính tả trong mối quan hệ với ngữ âm để nhận diện những sai chệch giữa ngữ âm và chữ viết;
(c) và cuối cùng tôi xem xét vấn đề dưới lăng kính của vấn đề chuẩn hoá ngôn ngữ để nhận ra ý nghĩa xã hội và vai trò của xã hội đối với vấn đề chính tả i và y.

Bàn về các vấn đề liên quan đến chữ quốc ngữ - một hệ thống chữ viết theo lối ghi âm - thì nhất thiết phải xét đến mối quan hệ ngữ âm và chữ viết; tuy nhiên nếu chỉ bàn về nó trên cơ sở thuần ngữ âm thì sẽ không lí giải được những sai chệch giữa âm và chữ vì lí do là hệ thống chữ quốc ngữ ra đời trong điều kiện là những nhà sáng chế là những nhà truyền giáo nước ngoài từ nhiều cộng đồng ngôn ngữ khác nhau (Latin, Bồ Đào Nha,Tây Ban Nha, Pháp) đã dựa theo ngôn ngữ của họ mà đặt ra những lối viết nay đã trở thành quen thuộc mặc dù ngày nay ta thấy chúng không thật theo sát quy tắc ngữ âm.

2. Bài trả lời của anh Dũng đưa ra bốn thực nghiệm ngữ âm. Về việc lựa chọn các thực nghiệm, tôi có ý kiến hơi khác với anh. Nếu muốn soát xét lại vấn đề i và y trên cơ sở ngữ âm thì tôi sẽ phác ra một vài tiêu chuẩn và phương hướng tìm tòi trước khi đi vào thực nghiệm. Ở đây cần nhận rõ là chữ i và y là hai đồ vị (grapheme) để ghi lại hai âm (phoneme) / i / khác hẳn nhau: một âm / i / là nguyên âm đóng vai trò âm chính trong âm tiết tiếng Việt, âm / j / kia là một âm cuối luôn luôn đặt sau âm chính để khép âm tiết lại.

Phân định hai âm / i / và / j / như thế thì có thể nhận ra ngay rằng ba trong số bốn thực nghiệm ngữ âm của anh Vũ Dũng chỉ liên quan đến âm / j / là âm cuối (Hình 1 và hình 2: AIAY2, hình 3: AYAY1). Những thực nghiệm này chỉ có ý nghĩa xác nhận lại chức năng âm cuối của âm / j / mà lâu nay vẫn được viết bằng chữ y và i. Nhưng vấn đề không phải là bản chất của các âm / j / đó, mà là chính tả của những âm ấy ra sao. Trước nay không thấy có tranh luận gì về các đồ vị y và trong trường hợp này. Hai chữ cái này dùng để ghi hai âm cuối / j / khi kết hợp với hai nguyên âm / a / dài và ngắn, không có sự lẫn lộn nào. Và vì thế cũng chưa thấy ai đặt vấn đề thay thế chúng. Trong bài trước tôi cũng ghi nhận hai "quy tắc" (3) và (5):
(a) "quy tắc 3: khi âm chính của âm tiết là một nguyên âm ngắn thì chữ quốc ngữ hiện nay đều chọn viết bằng y: rày, rảy, thay, nấy, đứt dey (dây), ley, léy (trong từ điển De Rhodes);
(b) "quy tắc" 5: khi âm chính là một nguyên âm dài thì chữ quốc ngữ đều nhất loạt viết i. Ví dụ: bói, xôi, ngôi, nuôi, ủi, uoi (voi) (trong từ điển De Rhodes).

Do vậy, những thực nghiệm ngữ âm về hai âm cuối do anh Dũng đưa ra thật ra không cung cấp thêm thông tin mới nào để xem xét lại vấn đề chữ y và i trong trường hợp này cả về mặt ngữ âm cũng như về mặt chính tả.

Cũng xin bàn thêm cùng anh Vũ Dũng về mấy điểm dưới đây trong đoạn phân tích về tần số âm học của "y" và "i" khi đi sau nguyên âm / a / : trước hết, anh Vũ Dũng đã chỉ nhìn về chính các âm / j / đó mà không quan tâm đến sự kết hợp giữa chúng và hai âm / a / khác nhau nên đã dẫn đến sự khác nhau giữa hai âm / j / này. Sau đó, anh kết luận như sau: "y" mô tả âm /i/ rõ hơn "i" (vì tần số cao hơn), và do đó đáng được dùng để mô tả / i / như một trong âm hơn là dùng "i". Có hai điều xin được góp ý với anh: một là tần số của âm / j / đi sau âm a ngắn có phần trội hơn âm / j / đi sau âm / a / thường; nhưng chúng đều là những âm cuối mà thôi, cho nên độ vang của nó kém xa âm / i / là âm chính; hai là âm / i / là âm chính thì dù là có âm phụ đầu và âm phụ cuối đi kèm hay không đều có tần số cao xấp xỉ ngang nhau và khác xa hai âm cuối / j /.

Cũng từ điều trên đây, tôi thấy khó có thể dùng cứ liệu thực nghiệm về hai âm cuối / j / để nói về âm chính / i / như khi anh phát biểu:"muốn mô tả / i / là trọng âm trong một chữ chỉ có một nguyên âm duy nhất là "y" hoặc "i" thì phải chọn "y" mới đúng". Nếu quan sát kĩ các âm phổ của những âm tiết có chứa những âm / i / này thì không thấy có gì khác nhau cả. Tất cả những khác biệt về lối viết hiện nay chỉ là do kết quả của việc dùng hai đồ vị để ghi cùng một âm / i / mà thôi. Mà đó là những gì chúng ta kế thừa từ những nhà sáng chế chữ quốc ngữ từ thế kỉ XVII.

Cuối cùng, tôi ngờ rằng anh đã thiết kế mấy thí nghiệm dựa trên một cách giải thích hơi xa cách hiểu của những người sáng chế chữ quốc ngữ về cái gọi là "sự cách biệt". Trong đoạn văn De Rhodes nói về chữ i, có lẽ ông chỉ muốn nói về sự khác biệt giữa chữ y/i này trong tiếng Việt và một âm tương tự trong tiếng Latin hay tiếng Bồ. Vả lại, chính ông có nói thêm là ông "không muốn dùng thêm hai chấm ở chữ i để tránh sự gia tăng các dấu hiệu" thì tôi hiểu là ông chỉ muốn tránh dùng chữ ï trong bảng chữ cái các ngôn ngữ phương tây vì có thể gây hiểu lầm rằng chữ ï đó cũng phát âm dài như hai âm / i / đi liền nhau nhưng "tách biệt" thành hai âm tiết. Hoàn toàn không hề có ý nói gì về âm dài / a: / như anh Dũng diễn giải.

3. Vấn đề chính tả chữ iy trong chính tả tiếng Việt hiện nay thật ra chỉ lộn xộn khi chuyển tải âm / i / là âm chính của âm tiết mà thôi. Mà trong trường hợp nó là một âm chính thì về mặt ngữ âm có ba trường hợp cần xem xét: (a) âm / i / là thành phần hạt nhân của một âm tiết; (b) âm / i / đứng một mình và làm thành một âm tiết hoàn chỉnh; (c) âm / i / kết hợp với một âm chính khác (trường hợp các nguyên âm kép). Hình 4 (IAIYEN) trong bài anh Dũng là một thực nghiệm về trường hợp thứ ba: âm / i / trượt sang một nguyên âm khác. Hãy bàn về hình 4 này. Theo tôi nét đặc trưng làm nên sự khác biệt giữa hai âm tiết nằm ở chỗ một đằng âm tiết đầu là một vần mở (ia), đằng kia là một vần khép (iêng). Về mặt ngữ âm khó nói được là âm / i / nào khác về tân số hoặc trọng âm, vì thật ra chúng chỉ là một âm / i / trượt đi sang một âm rộng hơn. Vấn đề ở đây chỉ là chính tả, khi có âm phụ đầu thì thói quen chấp nhận chữ i, khi nó đứng đầu âm tiết thì dùng y.

Thế còn hai trường hợp chỉ một âm / i / làm hạt nhân của âm tiết thì sao ? Như đã trình bày, về mặt ngữ âm không có gì khác nhau giữa các âm / i / trong các âm tiết [ầm] ĩ [lại] cả. Nói khác đi, trong trường hợp âm / i / là một âm chính thì chính tả có vấn đề. Tiếc thay bài góp ý của anh Dũng lại không soi sáng hơn về trường hợp này. Mà đây mới là mấu chốt của vấn đề chúng ta đang bàn.

4. Tôi thử làm một thống kê dựa trên một trang đầu của hai văn bản là bài của tôi (tài liệu 1) và bài của anh Dũng (tài liệu 2). Dưới đây là thống kê tỉ lệ các chữ có i và y mà tôi nhặt ra theo tiêu chuẩn bảy nhóm phân loại mà tôi trình ra trong bài trước:

tài liệu 1
tài liệu 2

(246 chữ)
(164 chữ)
1. nhóm si/sy - li/ly - kí/ký
25 (10%)
30 (18%)
2. nhóm sinh - lính - kính -xỉu
24 (9%)
12 ( 7%)
3. nhóm hia - bìa - đĩa - hiền - biết - giếng
59 (23%)
36 (21%)
4. nhóm yêu - yến - yểng
1 (0.4%)
4 (2%)
5. nhóm im - ỉu - ý - y - ỷ/ỉ
38 (15%)
21 (12%)
6. nhóm quí/quýt - huyện - thuý - nguy
16 (6%)
8 (4%)
7. nhóm mai - cúi - mây - cay - cai
83 (33%)
53 (32%)

Tỉ lệ trên có thể xê xích trong các bản văn dài ngắn khác nhau, nhưng tỉ lệ giữa chúng với nhau thường khá ổn định. Trong tình hình chính tả hiện nay, nhóm 2, 3, 4 và 7 thường không gây ra nhiều rắc rối; trong khi hai nhóm 1 và 6 thường có vấn đề chính tả, ngoài ra nhóm 5 cũng ít nhiều có sự dùng i/y thông lẫn nhau. Tổng cộng ba nhóm thường lẫn lộn thì thấy khoảng 31% (tài liệu 1) hay 34% (tài liệu 2) chữ viết có i và y đặt ra cho chúng ta vấn đề chuẩn mực chính tả cho chúng. Một tỉ lệ như thế là khá cao. Cho nên tôi nghĩ rằng chuyện chữ i và y là một vấn đề có thật chứ không nên nói là chúng không đáng đặt thành vấn đề. Thử hỏi cứ ba chữ thì có một chữ khiến phải đắn đo về cách việt thì đâu có phải là ta muốn vẽ việc ? Nếu đã là một vấn đề của chính tả tiếng Việt thì người Việt chúng ta phải suy nghĩ mà chỉnh đốn thôi.

5. Khi tôi dựa trên những cứ liệu chính tả ghi trong sách báo để lên bảng phân loại 7 nhóm các chữ viết có i/y, tôi chỉ có ý khái quát hoá các "quy tắc" chính tả mà hiện nay người Việt chúng ta đều thừa nhận chứ chẳng phải là tôi sáng tạo ra đâu. Anh Dũng thì cho rằng năm quy tắc trong bài của tôi cũng không khác gì ba "quy tắc" anh đưa ra cho những ai muốn thay đổi lối viết i/y. Tôi e rằng lại có ngộ nhận. Thực sự thì chúng rất khác nhau. Mà nói cho cùng thì khác biệt trong nghiên cứu chẳng có gì đáng bàn. Chỉ đáng nói hay không là hiệu quả thực tế của các giải pháp.

Về phần tôi, tôi rất ngại phải sáng tạo thêm một giải pháp cho chữ i/y như anh Dũng đã làm đối với quy tắc (1) của anh: có thể thay y bằng i khi nào nó không thay đổi nghĩa. Nếu thế thì tiếng Việt sẽ tạo thêm rất nhiều từ không có trong từ điển hiện tại, kiểu như *"bâi giờ", *"ngâi thơ"… vì chúng không làm thay đổi ý nghĩa của các từ đó. Giải pháp này sẽ còn làm rối loạn tiếng Việt thêm do hậu quả của việc sản sinh thêm hàng nghìn chữ viết mới. Ý nghĩa chỉ là vấn đề quy ước về cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Đối với người bản ngữ đã có số vốn từ vựng lớn lao lưu trữ trong óc thì không cần thiết phải quy chiếu vào ngữ nghĩa; nhưng với người ngoại quốc và trẻ em thì chúng ta làm sao giúp học viên giải quyết chuyện này ? Có lẽ chúng ta lại phải quay trở lại với giải pháp chính tả (nghĩa là dựa vào mặt chữ viết). Đến đây thì cần phải cùng suy nghĩ để đạt đến một giải pháp triệt để. Năm quy tắc mà tôi trình bày vẫn hãy còn rớt lại một số điểm cần phải bàn thêm, nhưng ít ra nó cũng đã được thử nghiệm trong giáo dục trẻ song ngữ, và có lợi điểm là rút xuống mức thấp nhất những cái gọi là ngoại lệ mà hiện nay chúng ta thấy nhan nhản.

Trong bài góp ý, nhiều lần anh Dũng cũng thấy là cách mô tả âm của bảng đồ vị chữ quốc ngữ không phải bao giờ cũng chính xác, rằng có nhiều điều bất ổn trong bảng mẫu tự Latinh. Mục đích bài viết của tôi cũng chỉ là nêu lên một vài chứng cứ nhỏ cho luận điểm trên mà thôi. Đồng ý là nó chưa hoàn chỉnh rồi thì chúng ta tính sao đây? Quan điểm của tôi là chúng ta có thể chỉnh đốn những lộn xộn trong việc định chuẩn mực cho chính tả chữ quốc ngữ. Tôi nói ra những gì có trong bài của mình là do sự tìm tòi suy nghĩ mà có chứ hoàn toàn không dính dáng gì đến những cái gọi là "niềm tin" mà anh Dũng ưu ái tặng cho.

Nếu có thể gọi là một "niềm tin" như anh Dũng nói, thì tôi tin là ngôn ngữ có mặt tập quán tự nhiên, nhưng không phải là không có thể hoạch định được một chính sách ngôn ngữ cho một cộng đồng. Tôi đề nghị trong bài viết của mình là cần giải quyết vấn đề trên cơ sở tôn trọng tập quán ngôn ngữ lâu đời, nhưng khi có những tập quán đối nghịch nhau vì ảnh hưởng từ những thói quen khác nhau (ở đây là từ ảnh hưởng của các từ điển do người tây phương biên soạn trong các thời xa xưa), thì cần đến bài toán của cả xã hội. Trên thế giới không phải đâu đâu người ta cũng theo chủ trương của các nhà ngữ học miêu tả Mĩ, là chấp nhận những tập quán ngôn ngữ của xã hội, và nhà nghiên cứu chỉ là miêu tả chứ không được phép đề ra bất cứ biện pháp nào để thay đổi tập quán ngôn ngữ. Tôi nhớ đã đọc từ lâu một quyển sách bàn về kinh nghiệm hoạch định chính sách ngôn ngữ tại một số nước (Rubin & Jernudd (eds) (1971) Can Language Be Planned? Honolulu: An East-West Center Book). Những kinh nghiệm như thế đáng cho ta suy ngẫm.

6. Để kết thúc, lại xin trở lại tính khoa học trong nghiên cứu. Một nghiên cứu khoa học thì không phải chỉ dừng lại ở việc sử dụng công cụ máy móc khoa học mà thôi, mà còn cần phải có tinh thần tư duy khoa học (trong sự chính xác, dựa trên sự kiện chứ không suy diễn). Hai lần được đọc bài anh Dũng tôi thấy anh dùng rất nhiều công cụ khoa học cho bài viết. Như thế là một điều đáng quý trong tình hình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn hiện nay. Tuy vậy, công cụ khoa học vẫn không thể thay thế được tư duy khoa học của con người. Lại thêm một điểm tôi đồng ý với anh. Mà đã nói đền tư duy khoa học trong nghiên cứu thì tôi nghĩ không có vấn đề nào là vặt vãnh cả. Một luận án khoa học khởi đầu từ một đề tài rất nhỏ hẹp mà có thể giúp người nghiên cứu đi sâu vào các ngõ ngách của vấn đề thì ý nghĩa của công trình nghiên cứu như thế cũng đáng trân trọng. Không cứ là phải bàn về những đề tài to tát.


Đoàn Xuân Kiên
Talawas, ngày 24/07/2002



                                                

Tuesday 10 December 2019


CÂU CHUYỆN ĐẶT TÊN ĐƯỜNG 
ALEXANDRE DE RHODES
VÀ NHỮNG CHUYỆN CÒN CHƯA NÓI HẾT

Đoàn Xuân Kiên



Vài tuần nay đã dấy lên những tranh cãi chung quanh việc thành phố Đà Nẵng có nên hay không nên đặt tên đường Francisco De Pina và Alexandre De Rhodes. Có thể mượn hai bản kiến nghị của hai nhóm trí thức nhân sĩ để tóm tắt hai quan điểm trái chiều nhau: 

(1) Nhóm 12 trí thức-nhân sĩ ở Huế và Đà Nẵng cho rằng không nên đặt tên đường Alexandre De Rhodes vì giáo sĩ này không phải là người có công đầu đối với chữ quốc ngữ; việc chế tác chữ quốc ngữ của các giáo sĩ phương tây chỉ là để phục vụ việc truyền giáo tại xứ ta; vả lại, các giáo sĩ phương tây như Alexandre De Rhodes chính là những người đã mở đường cho thực dân Pháp đến nước ta mà thôi.

(2) Nhóm 101 trí thức và nhân sĩ tại Sài Gòn và các nơi khác thì cho rằng rất nên đặt tên đường Alexandre De Rhodes để tỏ bày lòng biết ơn đối với công lao của vj giáo sĩ, bày tỏ lòng biết ơn với tiền nhân, đồng thời cho rằng hai vị giáo sĩ này xứng đáng được vinh danh vì họ đã góp phần tạo ra một hệ thống chữ viết góp phần rất lớn trong việc phổ cập và phát triển văn hóa Việt Nam.

Có một điểm đáng lưu ý là cho đến nay, sau mấy tuần tranh luận qua lại, hai quan điểm tranh luận trên xem ra khó đi đến đồng thuận. Câu chuyện tưởng chừng chỉ là một đề tài học thuật nhưng lại trở thành một cuộc tranh luận rất xa học thuật. Và khi có một nhà sư Phật Giáo tham gia tranh luận thì câu chuyện đã mang nhiều tính chất chính trị-xã hội có thể gây ra những sứt mẻ khó tránh.

Qua những gì bày tỏ trước công chúng, có thể nhận ra hai quan điểm trái chiều này đã đặt điểm tựa cơ sở tranh luận khác nhau: một bên dựa vào một tình cảm chính trị gọi là chủ nghĩa yêu nước mà chúng ta đã biết từ 1945 đến nay. Trên cơ sở này thì những ai không ở trên cùng chiến tuyến với ta hẳn nhiên là địch rồi. Alexandre De Rhodes là một giáo sĩ Pháp đã đến Đàng Ngoài và Đàng Trong trong sứ mệnh truyền đạo Thiên Chúa, và chữ quốc ngữ chỉ là công cụ mà ông đã cùng các giáo sĩ phương tây khác chế tác chỉ để phục vụ họ trong công việc truyền đạo mà thôi. Thực  tế lịch sử cũng đã cho thấy mối quan hệ thiết thân giữa công việc truyền giáo của các giáo sĩ với các triều đình các nước phương tây trong thời kì các đế quốc thực dân đang vươn lên ở thế kỉ XV về sau.

Đáp lại quan điểm trên là những người chủ trương cần tôn vinh Alexandre De Rhodes và chữ quốc ngữ vì chính ông là người đã từng đánh dấu mốc quan trọng cho hành trình dài lâu và hữu dụng của chữ quốc ngữ. Trong nhóm này có những nhà trí thức chuyên ngành ngữ văn và những người khác. Trong cuộc tranh luận hiện nay, các vị khoa bảng chuyên môn về học thuật có thể nhắc lại cho chúng ta nhớ những chặng đường phát triển của chữ quốc ngữ từ khi nó còn trứng nước cho đến khi hoàn chỉnh rồi được nhà nước thuộc địa cho phổ cập trong giáo dục, hành chính như thế nào, rồi chữ quốc ngữ được chuẩn nhận là phương tiện chuyển ngữ trong xã hội ta sau năm 1945... Có vẻ như mọi người bằng lòng với lập luận cho rằng khi nhà nước Việt Nam ban hành quyết định dùng chữ quốc ngữ làm phương tiện chuyển ngữ trên toàn xã hội thì cũng là sự thừa nhận công lao và vai trò tiên phong của các giáo sĩ phương tây -mà đại biểu hàng đầu là Alexandre De Rhodes- đối với chữ quốc ngữ. (1)

Sự thể xem ra không thẳng băng như mong muốn của những người thuộc hai quan điểm trái chiều về hai vị giáo sĩ phương tây nói trên. Có một nhân tố khá nổi cộm nhưng lại bị cất giấu đằng sau những tranh luận chung quanh hai vị thừa sai phương tây này. Sự thật là cả hai quan điểm trên đây đã chỉ là kết quả của hai định kiến chính trị vốn lưu cữu trên đất nước mình từ thế kỉ XIX đến nay. Chừng nào chưa cảnh giác với di sản của những hệ luỵ quá khứ như thế thì cuộc đối thoại hay tranh luận -cho dù ai muốn nó chỉ là tranh luận học thuật- thì kết quả vẫn chỉ là như... đang diễn ra hiện nay, không có điểm kết chung.

Hãy cùng trở ngược lại thế kỉ XVI, khi Đại Việt chúng ta bắt đầu tiếp xúc với phương tây qua các tàu buôn và giáo sĩ Bồ Đào Nha. Đó chẳng phải là sự gặp gỡ tình cờ mà là có chủ định trong một chiến lược toàn cầu ở vào thời buổi ấy.

Từ sau những cuộc thánh chiến gay gắt giữa hai thế lực tôn giáo lớn là giáo hội Roma và Islam, trên địa bàn toàn cầu buổi ấy có hai thế lực chính trị liên minh với tôn giáo đi chinh phục thế giới. Thế kỉ XIV-XV chứng kiến sự hưng thịnh của hai vương quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Hai nước này đang làm chủ đại dương sau khi Columbus tìm ra lục địa mới mà sau này sẽ là châu Mỹ. Vì có tranh chấp giữa hai vương quốc này trong việc khám phá và chiếm đoạt những xứ sở không phải là thần dân chung của Giáo Hoàng nên mới có Sắc chỉ Inter Coetera năm 1493, do giáo hoàng Alexander VI ban hành, trong đó giáo hội Roma lúc ấy chia thế giới làm hai phần chạy từ Bắc cực xuống Nam cực chạy qua quần đảo Acores, phía tây của đường ranh thuộc độc quyền xâm lăng và truyền đạo của Tây Ban Nha, phía đông đường ranh gồm toàn vùng châu Á thuộc Bồ Đào Nha. Do vậy mà giáo đoàn Bồ đã sớm thành lập ở Macao một cơ sở để phân bổ giáo sĩ truyền giảng tại Trung Hoa, Nhật và Đại Việt... Trong khi các giáo đoàn thừa sai ở Macao hoạt động mạnh tại phía Đông Á thì thế lực Hồi Giáo cũng đang xâm thực vùng địa bàn của văn minh Ấn Giáo tại Đông Nam Á. Đã xảy ra những cuộc giao chiến giữa các thuyền chiến Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và các lực lượng phong kiến Hồi Giáo tại địa bàn này.

Như thế thì từ buổi đầu của cuộc chinh phục thế giới, các thế lực chính trị trên đây không chỉ là cử người thừa sai đi rao giảng tin mừng (tôn giáo) mà cũng mang tính chất thực dân nữa. Sự kiện này hiện rõ trong các tính toán của nhà nước Pháp và giáo đoàn hải ngoại Pháp về sau này. Tại vùng đất thuộc địa của họ, mà Việt Nam là đấu trường lớn.

Cũng vì thế mà chúng ta thấy rơi rớt đó đây trong các văn bản của giáo sĩ Alexandre De Rhodes, ông có nói đến ý tưởng "những chiến sĩ" (soldats) đi rao giảng tin mừng, đi chinh phục thế giới để quy phục vương quốc của Thiên Chúa. (Trong sách  Divers Voyages De La Chine Et Autres Royaumes De L'Orient..., ông nói nhiều đến vai trò "chiến sĩ" này, nhưng không phải là kiểu nói sặc mùi đao kiếm như lời trích dẫn trong sách Lịch Sử Việt Nam tập I (1971) của nhà nước Việt Nam đâu.) (2) Ông tự xem mình là một chiến sĩ ấy, và đã tích cực vận động hoàng gia Pháp để hỗ trợ công cuộc chinh phục cao cả này. Những biến cố chính trị tại địa bàn Đại Việt cho đến năm 1945 đã ghi dấu rõ vai trò song hành của giáo đoàn hải ngoại Pháp và nhà nước thuộc địa Pháp. trong bối cảnh chính trị đó, việc đưa chữ quốc ngữ La tinh vào các mặt sinh hoạt hành chính, truyền thông và giáo dục thời thuộc địa cũng là chuyện đương nhiên. Chừng nào các bậc thức giả còn bỏ quên những sự kiện lịch sử nói trên thì những luận điểm tranh luận giàu tính học thuật (ở đây là ngôn ngữ học, văn tự học) sẽ chưa thuyết phục mọi người. Những gì đã xảy ra trên đất nước mình đều đã để lại di sản, kể cả những hệ luỵ của lịch sử đó.

Trên đây vừa lướt qua những gì mà mấy thế kỉ tiếp xúc với thế giới phương tây, bắt đầu từ giao tiếp với các giáo đoàn hải ngoại Bồ, Tây Ban Nha, Pháp... Cuộc giao tiếp đó nằm gọn trong giai đoạn phát triển đế quốc thực dân của phương tây. Cuộc giao tiếp đó đã dẫn nước ta đến 83 năm làm thuộc địa của Pháp. Nhưng không phải chỉ có di sản buồn là gần năm thế kỉ vùng vẫy trong ma trận của ngoại thuộc. Cuộc tiếp xúc với thế giới phương tây cũng đã cho nước ta cơ hội mở cửa cho văn minh phương tây, đạo Thiên Chúa và chữ quốc ngữ La tinh. Đó là những gì Việt Nam của thế kỉ XX thừa hưởng kết quả của cuộc giao tiếp lịch sử này.

Trong bối cảnh của di sản lịch sử nói trên, chữ quốc ngữ là một thành tựu lớn đã cùng đi với đất nước Việt Nam vào thời hiện đại. Đến nay, sau đúng một thế kỉ chữ quốc ngữ được chính thức đảm nhận vai trò chuyển ngữ của xã hội, những ai muốn xoá bỏ nó, phủ nhận vai trò của nó trong xã hội sẽ chỉ làm một việc luống công. Đáng nói chăng là những người tác tạo ra chữ quốc ngữ. Họ là những giáo sĩ tiền phong của phương tây đến giảng đạo tại địa bàn Đàng Trong và Đàng Ngoài của Đại Việt, phải mầy mò để thích ứng với môi trường ngôn ngữ văn tự xa lạ với ho. Chữ quốc ngữ hình thành từ nhu cầu giao tiếp cụ thể ấy mà hoàn thiện chính nó qua thời gian. Từ khi nó phôi thai trong tài liệu ghi lại của những giáo sĩ như Cristophoro Borri đến khi quyển từ điển đầu tiên được ấn hành tại Rome (1651) là một tiến trình dài. Rồi từ điển Béhaine (1773) và từ điển Taberd (1838) là một hành trình dài lâu, bền bỉ và công phu mà công khó không phải chỉ là ba tác giả đứng tên trên bìa sách. Những người Việt đã giúp các giáo sĩ ghi từng chữ nôm trên hàng ngàn mục từ của hai từ điển sau là ai, không được nhắc đến. Những ai đã giúp các giáo sĩ học tiếng Việt rồi ghi chép lại vào sổ tay của họ là những ai, không được nhắc đến. Nhưng họ cũng xứng đáng được vinh danh trong số những người góp công làm nên diện mạo chữ quốc ngữ vào thời của họ, và cho con cháu sau này. Khi linh mục Léopold Cadière đề xướng việc những nhà văn hoá liên quan đến xứ thuộc địa An Nam vinh danh giáo sĩ Alexandre De Rhodes năm 1912, ông không dè hết những hệ luỵ của sự đề xướng này. Nhưng sự đề xướng của ông không phải là không có phần đúng. Cho nên, nối tiếp ông, có những người Việt và Pháp cũng muốn tôn vinh Alexandre De Rhodes ở những tầm mức khác nhau thì chỉ là phải chăng thôi.

Chẳng may là bên cạnh pho Từ điển Việt-Bồ-La (1651) quý giá, mỗi khi nhắc đến Alexandre De Rhodes, người ta không thể bỏ lơ quyển sách Phép Giảng Tám Ngày (1651) của ông. Quyển sách giảng dành cho giáo dân mới cải đạo ở thế kỉ XVII phản ảnh đúng não trạng của giáo hội La Mã trong quá trình chinh phục thế giới, nhưng đã xúc phạm nặng nề đến truyền thống lâu đời của phong hoá đông phương tại vùng đất ông rao giảng đạo Ki Tô. Não trạng này kéo dài rất lâu, và chỉ đến khi nó được đưa lên bàn mổ tại Công Đồng Vatican II (1962) thì thái độ trịch thượng tôn giáo kia mới giảm bớt. Những người trí thức Công Giáo đáng lẽ phải giúp những người tín hữu của mình sống đạo và hoà nhập với đất nước trên tinh thần Công Đồng Vatican II thì đã có thể giúp nhau tránh những tranh chấp gay gắt như đã xảy ra rất dài lâu thế này.  

Những gì nói trên đây chỉ để góp thêm một góc nhìn vào một sự kiện lịch sử chưa được nhìn nhận đầy đủ, toàn diện và theo đúng lịch sử tính của nó. Vì chưa nhìn nhận đầy đủ tính lịch sử của vấn đề mà những người cổ suý cho việc tôn vinh giáo sĩ nước ngoài đã trở thành mũi phê phán, công kích của "phía bên kia". Có để ý đến nhân tố "hệ luỵ quá khứ" này mới lí giải được tại sao có một dạo tại hải ngoại bùng lên những phê phán gay gắt nhằm công phá thành trì đạo Gia Tô. Trên báo mạng Giao Điểm dạo đó có những luận điểm phê phán nặng nề xuất phát từ quan điểm cực đoan của nhà nước cộng sản Việt Nam. Cũng dễ hiểu. Nhà cầm quyền đã phải làm hết sức để giành thắng lợi cho Nghi Quyết 36 nhắm vào cộng đồng người Việt hải ngoại. Chỉ đáng buồn là những đập phá không nương tay một dạo đã chỉ cho thấy những vết thương của quá khứ vẫn chưa lành. Và khi một số Phật tử cũng góp phần tiếp tay cho những người chủ suý công cuộc đánh phá trên thì hiển nhiên là di sản của những hệ luỵ quá khứ vẫn còn nặng nề.   

Chỉ phiền là một nửa sự thật trên đấy vẫn chưa phải là toàn bộ sự thật. Những gì chúng ta vừa nhìn lướt qua trên đây mới chỉ là một nửa của di sản lịch sử mà đất nước ta đã trải qua.

Sau thế chiến II (1939-1945), các đế quốc thực dân lần lượt tan rã, trả lại chủ quyền dân tộc cho các nước thuộc địa. Chẳng may, khi làn sóng thực dân đế quốc cũ tàn lụi thì làn sóng đế quốc mới dâng lên nhuộm đỏ phần Đông Âu và nhiều quốc gia cựu thuộc địa của phương tây, trong đó có Việt Nam. Tại những quốc gia mới đôc lập theo khuôn khổ của đế quốc đỏ lại xảy ra những tai ương mới: lịch sử được viết lại, lằn ranh ta-địch thật rạch ròi. Ý hướng cắt lìa quá khứ, thậm chí có lúc có cả chủ trương xoá sạch quá khứ mà những người cộng sản cho rằng không đáng tự hào để nhớ lại... Trước làn sóng ý thức hệ cao ngạo này, những trí thức nho gia đầu thế kỉ XX chỉ được họ coi là những người cải lương nửa vời hoặc những kẻ thoả hiệp với thực dân đế quốc. Chưa bao giờ trong lịch sử nghìn năm của dân tộc, chân lí đúng sai của đời sống lại được vẽ ra rạch ròi đến thế. Cái đúng phải thuộc về những người theo chủ nghĩa yêu nước cực đoan Leninist.

Trong khuôn khổ ý thức hệ mới, lịch sử chữ quốc ngữ được nhìn nhận rất khác: dân tộc ta đã giành lại công cụ chữ viết vốn chỉ phục vụ mưu đồ thôn tính nô dịch nước ta trở thành một công cụ hiệu quả cho việc phát triển văn hoá giáo dục dân tộc. Tác giả của công trình đồ sộ này chẳng qua chỉ là những kẻ tội đồ của dân tộc Việt, không đáng ghi nhớ!... Gần đây nhiều người thường nêu lên một câu chữ trích dẫn trong sách Lịch Sử Việt Nam I của nhà xb. KHXH (1971), có ý khêu lên một xuyên tạc lịch sử có chủ ý, chỉ nhằm mục đích tranh thắng trên một di sản của lịch sử. Thật ra còn nhiều, rất nhiều những minh chứng như thế về một thái độ độc quyền lẽ phải, độc quyền chân lí. Trên cái nền của chủ nghĩa yêu nước cực đoan đó, những chuyện vẽ vời về những nhà yêu nước kiểu Lê Văn Tám hay hàng ngàn hàng vạn những "anh hùng thời đại" như thế đang cần những Phan Huy Lê mới giúp xã hội trả về với sự thật những gì không thật. Có thế mới làm sạch được những bảng tên đường nhan nhản hiện nay trên khắp nước như một thách đố lương tâm những người con dân chính trực.

Chẳng may là tâm lí hãnh tiến của những người cộng sản đã kéo dài quá lâu, cho nên không tránh được tình cảnh tâm lí bị điều kiện hoá của một bộ phận quần chúng trong xã hội Việt Nam hôm nay. Cho nên mới nảy sinh những vị khoa bảng học giả như Lê Cung, Nguyễn Đắc Xuân và cơ man là những trí thức quan chức thời nay mang đủ loại phẩm hàm nhưng sự hiểu biết lịch sử thì thật đáng ngờ. Họ chỉ phát ngộn từ tâm lí đã bị điều kiện hoá của ý thức hệ cực đoan kia.

Di sản quá khứ như vậy không chỉ nặng nề có một lần, mà tới hai ba lần đó chứ. Những cuộc tranh cãi như là chung quanh chuyện chữ quốc ngữ và Alexandre De Rhodes lần này chỉ thêm một lần gợi lại vết thương còn nhức nhối trong lòng dân tộc. Cần nhiều dũng lược của những người con dân Việt. Nói cho đúng thì sau biến cố Berlin Wall sụp đổ (1989), và nhất là sau khi Liên Xô tan rã (1991), thì thành trì ý thức hệ của nó cũng đang bị công phá khắp nới. Trên tờ báo Moscow News trong những năm đầu Perestroika, người ta đã chứng kiến cảnh những trí thức viện sĩ hàng đầu của Liên Xô khấu đầu xin lỗi quốc dân vì  khuất phục ý thức hệ cứng nhắc mà đã góp phần với đảng Xô Viết viết lại lịch sử nước Nga theo chỉ thị của đẩng cầm quyền... Chúng ta ghi nhận là trong giới học thuật Việt Nam đã có những nỗ lực vượt thoát não trạng bị điều kiện hoá do ý thức hệ mác xít giam hãm lâu năm. Hãy ghi nhận nơi đấy nỗ lực thoát-ý-thức-hệ của giới nghiên cứu văn học nước nhà, mà Trần Đình Hượu là một trong những người mở đường cho một sự nhìn lại đang rất cần thiết.

Sau năm thế kỉ đầy những đổ vỡ vì phân hoá, vì thù hận, có thể nào người trong cùng một nước có thể nhìn nhận lại hết di sản đó để giải trừ những vướng mắc từ đó?

Đến đây, có thể nói gì thêm về di sản tâm lí do những hệ luỵ lịch sử? Có lẽ chỉ cần làm một việc: hãy cảnh giác với nó, hãy vứt bỏ nó đi, ném nó vào thùng rác lịch sử để cho hành lí chúng ta nhẹ nhàng đi vào tương lai.

Vứt bỏ di luỵ quá khứ mấy trăm năm của đế quốc Roma thì người Việt chúng ta sẽ có thể trân trọng gia tài chúng ta có hôm nay, trong đó có chỗ đứng của văn hoá Ki Tô Giáo, bên cạnh những gia sản truyền thống đông phương trước kia. Việt Nam ở thế kỉ XX và XXI là thế. Ai phủ nhận được? Vứt bỏ hệ luỵ quá khứ thì quyển Phép Giảng Tám Ngày (1651) của Alexandre De Rhodes chẳng hạn, chỉ còn là mớ tài liệu cho tôi tìm hiểu câu nói, chữ viết của dân nước tôi ở thế kỉ XVII như thế nào. Thế thôi. Chẳng có gì phải ầm ĩ. Vứt bỏ di luỵ của quá khứ thuộc địa thì chữ quốc ngữ sẽ hiện lại trong mắt tôi là một thứ gia sản ngẫu nhiên của lịch sử do người ngoài đem lại tặng hiến cho dân tôi. Sao không đáng trân trọng?

Cũng thế, những người ở "phía bên kia" cần phải cảnh giác về não trạng độc tài ý thức hệ mà mình tiêm nhiễm, nay cần tháo bỏ nó để nhìn lại rõ chân dung anh em, bạn bè, đồng bào mình. Đừng bao giờ nói như một anh trí thức kia, là câu văn tiếng Việt chỉ thực sự phong phú, nhiều màu sắc từ khi "ta" có đảng! (3) Sự thật là câu văn tiếng Việt đã phá bỏ tính biền ngẫu mà bắt đầu phát triển phong phú từ những năm đầu thế kỉ XX. Đến khi Hoàng Tích Chu và sau này nhóm Tự Lực Văn Đoàn đề xướng câu văn mới, ngắn gọn, thì câu văn Việt đã phát triển thêm một bậc. Xấc xược với tiền nhân không phải là thái độ của người Việt Nam có văn hoá ở thế kỉ XXI.

Cũng nhờ vứt bỏ hệ luỵ của quá khứ, người Việt chúng ta sẽ thấy hãnh diện vì ta có chữ quốc ngữ dùng mẫu tự La tinh bên cạnh di sản chữ quốc ngữ viết bằng nét chữ Hán mà ta thường gọi là chữ Nôm. Đó là những di sản của lịch sử mà đất nước ta đã làm ra bằng cách này cách khác.

Nói vậy thì cũng phải nói hết lẽ về di sản văn tự của chúng ta. Phải thừa nhận rằng trong số những nước có được hệ thống văn tự theo hệ chữ viết La tinh, nước Việt mình kém may mắn là đã "theo mới, hoàn toàn theo mới" mà có phần đoạn lìa di sản truyền thống nghìn năm là văn hoá Hán-Nôm. Nhưng đây nào phải trách nhiệm của tự thân hệ chữ quốc ngữ La tinh! Trách cứ nó như Cao Xuân Hạo hay những người nối điêu ông là phạm một lầm lẫn lớn. Trách nhiệm phải nằm ở những người có trách nhiệm quản lí xã hội chúng ta, suốt từ thời thuộc địa đến nay. Nhà nước thuộc địa thì hăm hở cải tổ thi cử, đưa chữ quốc ngữ vào các mặt sinh hoạt xã hội nhằm mục đích xoá bỏ vai trò của cổ học trong xã hội. Đến khi đất nước giành được độc lập thì sao? Các nhà nước nối nhau suốt từ 1945 đến nay đã làm gì khác hơn nhà nước thuộc địa thời trước? Một thời gian rất lâu, từ 1954 trở đi, hệ thống giáo dục phổ thông và đại học hầu như lơ là việc gìn giữ, trau luyện vốn từ vựng Hán Việt. Người ta nhân danh việc "gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt" để công phá vai trò chữ Nho và vốn từ Hán Việt cho công chúng. Ngày hôm nay đây mà ai lớn tiếng rằng con cháu Việt Nam vì chữ quốc ngữ mà bị đứt đoạn với di sản Hán Nôm, thì chính là họ đã lẫn lộn trách nhiệm của một công cụ truyền thông với những người có trách nhiệm điều hướng sử dụng công cụ đó. Nhìn nhận rõ như thế mới có thể đối xử công bằng với chữ quốc ngữ La tinh, và mới tìm đúng đầu kẻ có trách nhiệm mà gõ.

Câu chuyện tranh cãi chung quanh một bảng tên đường xem ra lại là một chỉ dấu cho một câu chuyện to tát hơn: những hệ luỵ của di sản quá khứ còn đè nặng trên đất nước mình. Quá khứ mấy trăm năm nặng nề thì di sản của nó hẳn nhiên không phải là nhẹ. Ngày nào người Việt chúng ta còn lảng tránh nhìn thẳng vào những hệ luỵ của di sản quá khứ thì những đối thoại, tranh luận như kiểu tranh cãi quanh chuyện một bảng tên đường cũng có thể trở thành một đám cháy nhức nhối. Mà chừng đó thì đất nước chúng ta cũng khó đi vào tương lai với tâm thế của những người đi xây dựng một Việt Nam KHÁC.
ĐOÀN XUÂN KIÊN




(1) Khi nhắc đến quyết định năm 1945 của nhà nước Việt Nam, các nhà khoa bảng trẻ tuổi chỉ nói đến quyết định của ông bộ trưởng nội vụ họ Võ của chính phủ Hồ Chí Minh mà lại bỏ quên sự thật lích sử là chính nội các Trần Trọng Kim đã đi trước trong quyết định lịch sử này.
(2) Xem: Uỷ ban Khoa học xã hội, Lịch sử Việt Nam, tập I. Nxb. KHXH, Hà Nội, 1971, tr. 304.
(3) Xem Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều. Nxb. KHXH, 1985, tr. 309.



Thursday 28 February 2019


Phải chăng tác giả Truyện Phan Trần
là Nguyễn Huy Lượng ?

Đoàn Xuân Kiên



Khoảng thời gian ba thế kỉ XVII-XVIII-XIX là thời thịnh của thể loại truyện nôm. Các nhà văn thời này đều có chấp bút và đã lưu lại nhiều tác phẩm văn chương lôi cuốn nhiều thế hệ người đọc. Truyện Phan Trần là một truyện nôm ra đời trong thời kì này, cụ thể là khoảng cuối thế kỉ XVIII, trễ lắm là đầu thế kỉ XIX.

Nội dung truyện là câu chuyện tình yêu của hai người trẻ tuổi tên là Phan Tất Chính và Trần Kiều Liên. trước kia, khi hai bên cha mẹ là Phan công và Trần công cùng làm quan trong triều vua Tĩnh Khang nhà Tống, đã có lời đính ước với nhau khi hai phu nhân cùng thụ thai. Không bao lâu cả hai ông về trí sĩ thì loạn li khiến hai nhà lạc nhau, hai người trẻ tuổi cũng lưu lạc, Phan sinh thì lên kinh học thi, cô gái Kiều Liên thì cha mất và rồi lạc mẹ sau cơn biến loạn, phải vào chùa tu. Cuộc sống run rủi cho hai người gặp nhau, và yêu thương nhau thầm lén trong khung cảnh nhà chùa. Hai người dần biết là họ chính là những người con đã đính ước từ lâu, nên đã thành hôn với nhau. Khi Phan sinh thi đỗ, hai người trở về đoàn tụ với gia đình đôi bên. Từ đó hai người sống hạnh phúc tròn vẹn trong cuộc đời thành đạt.

Chuyện tình ái đầy chất đam mê của đôi nam nữ trong truyện được kể lại tường tận qua văn từ cũng sôi nổi, cụ thể không kém, từ khi chàng thư sinh lên vãn cảnh chùa đã si mê sư cô trẻ mà quên mất lời đính ước hôn nhân gia nghiêm đã từng dặn dò, đến khi chàng thanh niên ốm tương tư và chỉ nhờ cuộc viếng thăm mầu nhiệm của sư cô trẻ mà khỏi bệnh để rồi lại càng đắm say với tình yêu không bình thường giữa một thư sinh và một ni cô tươi trẻ. Cũng may là khi họ đi lại với nhau, dần dà mới cùng nhận ra họ chính là đôi trai gái đã từng được đính ước từ nhỏ, chỉ vì xiêu tán mà lạc nhau. Thế là nhờ may mắn mà tình yêu lãng mạn đắm say và lệch khuôn thước xã hội đã được kết thúc có hậu trong khuôn khổ lễ giáo.

Đương thời, có người đã phê phán chuyện tình Phan-Trần qua câu vè:

        Đàn ông chớ kể Phan Trần
        Đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều

có lẽ là do lối hành văn nhã luyện, lôi cuốn của các tác giả dành cho hai câu chuyện tình lệch khuôn thước xã hội, và xem như là hai tác giả nhà văn nho sĩ tài hoa này đã cổ vũ cho lối sống lãng tử, vượt bỏ lề thói xã hội chăng? Nếu thế thì có phần khắt khe quá đối với  tác giả truyện Phan Trần và truyện Kim Vân Kiều, vì có phải riêng hai truyện nôm này như thế đâu, mà đấy cũng là nét chung của dòng văn chương tài tử thời đó, dù có vượt bỏ khuôn thước gò bó của lễ giáo Nho gia nhưng cũng chưa hẳn đoạn tuyệt được với hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội. Thời ấy đã như làn sóng tràn những câu chuyện tình yêu tươi trẻ chưa từng thấy xuất hiện trong kho tàng văn học nôm cổ, nào có riêng gì hai truyện nôm nhắc tới trong câu vè kia! Chúng tôi thiển nghĩ câu chuyện ngự sử văn đàn này, không phải là chuyện thuần văn học hay luân lí, mà mang đậm chất chính trị-xã hội của một thời xã hội còn đang dao động sau cuộc sang trang đổi đời của chính trị xứ ta sau 1802, như sẽ nói ở phần dưới bài.
 
Phong thái phóng túng của nhà nho tài tử thời kì này rốt cùng cũng chỉ được trút ra trên trang văn thơ trữ tình, và những nhà văn nho sĩ được gọi là những nhà nho tài tử vì phong thái lệch khuôn thước của họ. Chỉ nói riêng về phong cách ngôn từ cùa thế hệ những nhà nho tài tử này thì có thể nói thời kì thịnh đạt của văn nôm này cũng là thời của những câu thơ chuốt lọc nhất, kĩ xảo nhất. Chất thơ, chất trữ tình đã được thể hiện ở mức tinh luyện nhất của câu văn nôm. 3254 câu văn Kiều nôm là những câu văn giàu tính văn nhã, tiêu biểu cho trình độ trang nhã cao nhất của ngôn ngữ văn học thời thịnh nôm. 938 câu lục bát của truyện Phan Trần cũng có vô vàn những câu văn nhã luyện không kém văn Kiều. Và cũng trong dòng chữ nghĩa đẹp và nhã như thế, câu văn trong truyện Hoa Tiên, truyện Nhị Độ Mai hay những bài ngâm nổi tiếng như Chinh Phụ Ngâm, Bần Nữ Thán... đều cho ta niềm tự hào về tầm cao nhã của câu văn nôm Việt thời thịnh nôm này. Cho nên cũng không lạ gì khi một số nhà nghiên cứu trước đây đã lẫn lộn chất trữ tình và chất nữ tính trong câu văn nôm thời này, và đã bảo lưu một định kiến lâu dài là câu văn trữ tình và giàu nữ tính hẳn phải là sản phẩm của nhà văn nữ. Đó là khi các vị biện hộ cho bà Đoàn Thị Điểm vì muốn giành tác quyền  bản diễn ca Chinh Phụ Ngâm nổi tiếng cho bà, làm như thể Phan Huy Ích không có khả năng cao diệu như thế.
  
Trở lại Truyện Phan Trần. Nhìn lại tất cả các bản in thì có thể thấy ngay là cho đến nay, Truyện Phan Trần không thấy có tên tác giả, cho nên vẫn thường được xếp vào kho truyện nôm khuyết danh (1). Trong điều kiện tài liệu hiện nay, có thể nào truy tầm tác giả truyện nôm này không? Để trả lời câu hỏi này thiết tưởng cũng nên để ý qua hiện tượng văn nôm khuyết danh của thời kì thịnh nôm cuối Lê-đầu Nguyễn.

Sự kiện một khối lượng lớn các truyện nôm khuyết danh là điều khó hiểu nhưng lại là điều thường xảy ra trong dọc dài lịch sử văn học hán-nôm nước ta trước đây. Hiện tượng này có nguyên do xã hội của nó. Trong thời đại mà văn chương chỉ là thứ văn chương nhàn phóng, trà dư tửu hậu, thì chuyện đề tên người trứ thuật không phải là chuyện đáng quan tâm hàng đầu của nhà văn nho gia. Tác giả có thể viết tay đề tặng bạn tri âm tri kỉ một bài văn khi có cuộc bình văn. Người bạn yêu thích bài văn lại có thể chia sẻ với bạn bè. Trong khi ngâm ngợi, nhóm bạn lại còn có thể nhuận sắc, thay đổi một vài chữ chỗ này chỗ khác cho "đạt" hơn, "nhã" hơn... Có thể bản văn truyên nôm Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) hay Phan Trần cũng như bao nhiêu tác phẩm văn nôm của ta đã chuyên tay trong tình cảnh như thế mà nay khó có thể truy nguyên bản văn gốc và những tác phẩm văn nôm đã bị "nhuận sắc". Hoạ hiếm lắm mới có được một trường hợp như Truyện Hoa Tiên mà ngày nay ta còn may mắn giữ được bản văn nguyên tác (của Nguyễn Huy Tự) và nhuận sắc (của Nguyễn Thiện).

Trong hoàn cảnh chung thì đã như thế. Đến những thời kì khá đặc biệt như trong hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương thời cuối Lê - đầu Nguyễn (thế kỉ XVIII-XIX), lại còn một tình cảnh khác thường, "nhạy cảm". Trong hoàn cảnh tế nhị đó, nhiều nhà văn nhà thơ có để lại nhiều di cảo hoặc bản khắc in lúc sinh tiền; nhưng con cháu đã phải cất giấu sách vở của cha ông, hoặc có giữ lại thì cũng cắt bỏ phần lạc khoản, như thể các di cảo kia là của những người vô danh nào đó. Chỉ đến khi xã hội đã hết nhập nhằng, tạm gọi là ổn định, người đời sau có quý chuộng sách hay thì lôi ra khắc in, cũng mặc nhiên bỏ trống phần lạc khoản nêu rõ danh tính người soạn sách.

Trường hợp điển hình mà chúng ta nay còn biết được là bản sách chép-in tập Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Tân Khúc của Phan Huy Ích, được biết là bản rập của bản khắc in khoảng sau 1814 (năm ông soạn xong bản diễn ca này). Bản rập này chỉ khác bản in từ ván khắc ở điểm là nét chữ  sắc sảo, chân phương. Trên trang đầu của sách có đầy đủ khung chữ đề danh tính tác giả ở trang đầu nhưng đã để trống. Một sự lạ. Sách có bài nguyên tự dài khoảng ba hoặc bốn trang, nhưng đã bị tháo bỏ tờ có hai trang cuối ấy, chắc chắn phải có ghi đầy đủ lạc khoản nêu rõ danh tính người làm sách và những người liên quan đến bản khắc in. Ngày nay ta biết được tác giả của bản Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Tân Khúc này là nhờ vào những dữ kiện khác về tác giả của nó chứ không dựa vào bài tựa thiếu trang kia.

Tại sao một tác gia nổi tiếng như Phan Huy Ích mà số phận sách in phải truân chiên như thế? Chỉ vì ông sống đúng vào thời mà đất nước chưa qua buổi tao loạn nhiễu nhương. Ta không quên rằng năm 1802, ông và người anh vợ  (Ngô Thì Nhậm) là hai ông tiến sĩ đã phải bị đòn roi ngoài Văn Miếu! Cho nên cũng là sự thường (!) thôi, nếu những năm đầu triều Nguyễn sách vở của những nho thần triều Lê-Trịnh hay Tây Sơn có bị vùi dập, đẩy lùi vào vòng ẩn danh, rồi rơi xuống khuyết danh, thậm chí vô danh (!), khi đời sau in lại các di cảo của họ.

Trong số nhiều danh sĩ tiền triều ở đầu thế kỉ XIX có Nguyễn Huy Lượng (?-1808). Ông là văn thần và là nhà thơ sống cuối đời Lê trung hưng, có ra làm quan với nhà Tây Sơn, và đến đầu đời nhà Nguyễn có được vời làm chức tri huyện rồi chết tại chức, có thể vì một lí do mờ ám, khi ông mới trên dưới tuổi 60.

Cho đến nay chúng ta biết được là Nguyễn Huy Lượng có bút hiệu Bạch Liên Am. Người đương thời vẫn gọi ông là Bạch Liên Am Nguyễn. Trong Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo, Hoàng Xuân Hãn đã sao lục và phiên chuyển ra chữ quốc  ngữ một bài văn lục bát 246 câu của Bạch Liên Am Nguyễn, phỏng dịch ra văn nôm từ nguyên tác hán văn Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn (2). Một số tài liệu trích diễm còn cho tác giả của tập Cung Oán Thi là của Bạch Liên Am Nguyễn (3), số tài liệu khác lại cho là của Nguyễn Huy Lượng (5). Có lẽ cho đến nay chỉ có Maurice Durand là người đầu tiên nhận ra sự kiện Bạch Liên Am Nguyễn và Nguyễn Huy Lượng là cùng một người (3). Chúng ta cũng được biết là Nguyễn Huy Lượng từng góp lời bình trong một bản cảo Truyện Kiều của Nguyễn Du khi truyện nôm này vừa được phổ biến (4)... Những chỉ dấu hiếm hoi và rải rác trên thư tịch cũ cũng đủ cho thấy ông là người đã từng theo nghiệp sáng tác và có giao du cùng với những nhà văn cùng thời như Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du...

Tiếc thay, Maurice Durand và Trần Nghĩa đã bỏ mất cơ duyên khảo sát văn phong Cung Oán Thi, phú Tây Hồ, văn tế Tướng Sĩ Trận Vong, hay gần hơn là bản phỏng dịch Chinh Phụ Ngâm (là những chứng tích văn chương của Nguyễn Huy Lượng) để từ đó nhận ra văn phong khá thống nhất với tác phẩm truyện nôm mà các ông đã dày công khảo đính và phiên chuyển: Truyện Phan Trần. Văn phong ấy chỉ có thể là của nhà văn Nguyễn Huy Lượng thôi.

Thật vậy, Nguyễn Huy Lượng là người viết văn không ngại liên hệ bản thân khi làm văn. Ông đã có lần cho biết khi làm bài phú Tây Hồ, ông đã ngoài 50 tuổi: "Ngoài năm mươi thẹn bóng tang du" (Tụng Tây Hồ). Mở đầu truyện nôm Phan Trần, ông cũng bảo:

        Liên Am 莲  nhân gặp hội vui
        Tưởng ân tình nghĩa, xem chơi quyển vàng

Chúng tôi trích theo bản phiên chuyển từ bản nôm Phan Trần Trùng Duyệt do Thần Khê Đồng Phong Thừa Thư khắc in (1904). Đây là một bản khắc in khác hẳn hệ ván khắc của một số lớn các bản khắc in đầu thế kỉ XX.




Trang đầu Phan Trần Truyện Trùng Duyệt (1904)

Các bản khắc in khác thì khắc  "trên 𨕭 (am)" với chữ nôm liên + thượng, và lại đổi thành câu khác hẳn:

        Trên am thong thả sách cầm
        Nhàn nương án ngọc buồn ngâm quyển vàng




Trang đầu Phan Trần Truyện bản Văn Đường (1867)

Trước nay chúng ta biết khá nhiều trường hợp người đời sau tự tiện nhuận sắc văn người xưa theo ý mình, hoặc có khi vì không hiểu ý văn người xưa mà đổi ra cho dễ hiểu theo ý mình. Chỉ xét riêng trường hợp hai câu mào đầu khác nhau này, chúng ta có thể nhận ra ngay hai phong cách văn chương khác nhau. Câu mở đầu của bản Trùng Duyệt cho ta thấy phong cách thoải mái, an nhiên của nhà văn khi đặt bút xuống trang giấy; ông nói về cảm nghĩ của bản thân mình trong buổi đầu lúc khai mào truyện. Phong cách ấy nhất quán với phong cách sảng khoái của nhà văn khi tụng cảnh Tây Hồ hay khi viết bài tế tướng sĩ trận vong. Thật khác với phong cách nhàn rỗi, thừa thãi thì giờ của một người ra ngẩn vào ngơ như hai câu mở đầu của bản văn khác.

Nguyễn Huy Lượng còn để lại nhiều tác phẩm văn nôm. Phong cách văn ông vừa tài hoa, vừa có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trước nay học giới đã quen với phong cách mạnh mẽ hùng biện của ông qua các bài phú, văn tế. Trong khung cảnh học thuật cổ thời, văn biền ngẫu mà có phong cách lôi cuốn như bài Tụng Tây Hồ Phú và bài Văn Tế  Nghĩa Sĩ Trận Vong thì phải là người văn tài hơn người.

Cho đến nay, chúng ta biết được văn tài Nguyễn Huy Lượng qua các bài văn Tụng Tây Hồ Phú và Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong. Hình ảnh nhà văn Nguyễn Huy Lượng qua những câu văn biền ngẫu trên là một người học rộng, thấm nhuần phong cách văn chương cổ điển, chữ nghĩa người xưa đầy ắp trong câu văn ông mà quý thay con người cá nhân nhà văn vẫn không chìm ngập trong kho chữ nghĩa tập cổ đó; ông đã lặn sâu trong chữ nghĩa mà vẫn nổi lên khỏi nó để chữ nghĩa văn từ trong bài văn vẫn là mình, phản ảnh bản sắc con người mình. Một bài phú Tây Hồ đã tập đại thành đầy đủ phong cách văn chương này. Hiểu và thích thú với văn chương bài phú đòi hỏi công phu làm quen với phong cách từ chương cổ điển; nhưng chữ nghĩa vẫn không làm mờ nhạt bản sắc văn phong cá nhân tác giả bài văn biền nổi tiếng (6).

Bên cạnh con người nhà văn nho sĩ có khẩu khí hào sảng, tràn đầy sức sống, từ nay chúng ta còn biết thêm là có một Nguyễn Huy Lượng tài hoa, văn chương nhã luyện của phong cách văn chương thời đại ông: văn chương lãng mạn, tài tử. Phong cách bài phỏng dịch Chinh Phụ Ngâm của Bạch Liên Am là phong cách tài hoa, giàu mĩ cảm. Những câu thơ tự tình lục bát mềm mại của bài ngâm cũng đã thể hiện nữ tính đa cảm của người chinh phụ, khắc hoạ một chân dung cảm xúc phong nhiêu của một nhà văn giàu sức liên cảm với số phận những con người quanh ông, cụ thể trong bài văn Chinh Phụ Ngâm này là của người phụ nữ mong chồng chinh chiến sớm trở về. 246 câu thơ lục bát đó còn là biểu hiện của tấm lòng liên ái những phận người kém may mắn, thua thiệt trong một xã hội đã quá nhiều tao loạn. Tấm lòng rộng lớn của nhà văn chưa đủ làm nên nhà văn lớn nếu ông không có một tài năng hơn người khi vận dụng ngôn từ để trải lòng mình ra trên giấy. Những cung bậc tình cảm của người phụ nữ trong bài Chinh Phụ Ngâm lục bát đã phản ảnh con người tài hoa đa cảm của nhà văn Bạch Liên Am.

Phong cách văn nhã của nhà văn nhà thơ Bạch Liên Am đã một lần nữa phả vào từng câu thơ lục bát trong Truyện Phan Trần. Từ lối văn lục bát tự tình trong bài ngâm chuyển sang lối tự sự trong thể truyện, nhà văn đã gói vào trong câu văn tự sự những mẩu suy nghĩ, những cảm nhận của ông về những cảnh đời của những con người dù là hư cấu đấy mà vẫn mang đậm những tình cảm thật của những con người thật mà ông từng gặp gỡ, từng chung sống và chia sẻ tâm tình thời đại trong những khung cảnh xã hội khác nhau.

Trong Truyện Phan Trần, những nhân vật (vốn xuất thân là những người thuộc đẳng cấp nho sĩ) đã nếm trải hết mùi vị cuộc sống, từ dùi mài kinh sử, đến yêu đương nồng nhiệt của tuổi trẻ, từ những thất bại trong khoa trường và tình trường đến những hạnh phúc gia đình yêu thương và vinh hoa của đời phục vụ xã hội. Những hạnh phúc và đau khổ, những khuôn thước xã hội và những quá đà trong đời sống tình cảm tuổi trẻ, những cảm nhận về nhân tình thế thái mà ta thấy trong dọc dài câu chuyện kể về một mối tình lãng mạn hẳn phải là phản ảnh kho kinh nghiệm sống của tác giả truyện nôm này. Nói cách khác, Bạch Liên Am phả vào từng câu thơ phong cách con người đa tình tài hoa của một nhà văn nho thần.

Nói về phong cách văn chương Truyện Phan Trần, không thiếu những câu lục bát giàu chất thơ như ta thường gặp trong kho tàng truyện nôm lục bát ở thời kì cuối thế kỉ  XVII-đầu thế kỉ XIX. Phong cách chung những câu lục bát trong truyện nôm là những kĩ xảo tiểu đối, cân phương, hô ứng, ý ở ngoài lời..., tạo nên phong cách bóng bẩy của văn chương, của ngôn từ văn học một thời. Trong chừng mức này, Truyện Phan Trần là một truyện nôm sánh ngang cùng những danh tác cùng thời đại của nó.

Tính đến khi bản khắc in sớm nhất mà nay ta còn được biết là năm 1867, Nguyễn Huy Lượng mất đi chỉ nửa thế kỉ thôi. Chỉ trong 50 năm ấy mà tác phẩm còn lại của ông đã trôi lạc lênh đênh qua mấy thể dạng sau:

(1) Có tác phẩm bị gán nhầm tác giả, như trường hợp tập Cung Oán Thi bị gán cho Nguyễn Hữu Chỉnh, và bài Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong bị gán cho tổng trấn Nguyễn Văn Thành;

(2) Có tác phẩm  bị những người hẳn là ở vị thế của những chủ nhân ông mới của xã hội Bắc hà sau 1802 dè bỉu qua một câu vè tưởng như vô tình nhưng có mang màu thù nghịch thường thấy trong buổi giao thời: "Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều". Hai tác phẩm liên can chính là Truyện Phan TrầnĐoạn Trường Tân Thanh. Trước nay các nhà bình luận chỉ nhìn ở khía cạnh phê phán bản thân hai quyển truyện nôm mà quên rằng hai tác phẩm văn chương này không khác là bao về nội dung tài tử, lãng mạn vượt khỏi quy lệ Nho gia. Tính cách chung của văn nôm thời kì cuối Lê - đầu Nguyễn là như vậy chứ có riêng gì hai tác phẩm trên đây! Từ Song Tinh Bất Dạ (thk XVII) đến một loạt những truyện nôm ở thk. XVIII-XIX như Hoa Tiên Truyện, Nhị Độ Mai, Sơ Kính Tân Trang, và hàng loạt truyện nôm mà nay còn khuyết tên tác giả như Tống Trân, Phạm Công Cúc Hoa, Thạch Sanh, Phương Hoa, Lý Công..., ở những mức độ khác nhau, tính cách lãng mạn vượt qua những quy ước ứng xử Nho gia đã là nét chủ đạo của những truyện nôm này. Sao lại chỉ phê phán hai truyện nôm Phan TrầnKim Vân Kiều? Sự thực là thời tranh tối tranh sáng những năm đầu triều Gia Long là những năm tháng không êm ả cho rất nhiều những nhà văn nho thần đã từng phục vụ tiền triều. Họ có thể bị căng nọc trước văn miếu vì cái tội là tiến sĩ mà không chọn đúng chủ mà thờ! Họ có thể bi triệu phái, lưu dung một thời gian trước khi bị thải hồi khi hết cần thiết (như Phan Huy Ích) hoặc thậm chí chết thảm (như Nguyễn Huy Lượng). Một câu vè "Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều" chỉ có thể hiểu cạn lẽ trong bối cảnh xã hội cụ thể đó thôi;

(3) Có những tác phẩm thời cuối Lê - đầu Nguyễn, nhất là vào triều đại Tây Sơn đã vì thời cuộc mà bị đẩy vào kho văn chương khuyết danh một thời gian dài. Khi hậu thế lục tìm lại trong kho sách cũ những sách vở giá trị để khắc in thì chỉ có thể tìm được những quyển văn mất đầu thiếu đuôi... Khối lượng những tác phẩm truyện nôm thường bị coi là khuyết danh, vô danh (!) trong khoảng thời gian này nhiều lắm, nhiều một cách bất thường, phần lớn là vì lí do xã hội của chúng. Sự kiện một số tác phẩm của Nguyễn Huy Lượng bị che giấu danh tính tác giả cũng nằm trong hoàn cảnh thời thế, xã hội những năm đầu đổi đời đó.

Tóm lại, trong chừng mức hiện nay, với những chứng liệu có từ văn bản truyện nôm Phan Trần và một vài tài liệu liên quan, có thể đã đến lúc trả lại tác quyền truyện nôm Phan Trần cho nhà văn Nguyễn Huy Lượng. Trước tiên là phong cách văn chương khá sát sao giữa bản phóng dịch Chinh Phụ Ngâm mà tác giả kí tên Bạch Liên Am Nguyễn và văn phong truyện nôm Phan Trần; bên cạnh đó, chứng từ khá hiển nhiên là tác giả tự nêu danh tính ở câu đầu tiên truyện nôm này. Thêm một bàng chứng nữa là những sự kiện chung quanh cảnh ngộ cá nhân nhà văn trong một hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương đã khiến sự nghiệp văn học của ông bị phủ mờ khói bụi của thời gian. Có thể trong tương lai, các nhà nghiên cứu có thể tìm ra thêm những cứ liệu xác tin hơn để trả lại cho Cesar những gì của Cesar, trong ý hướng đẩy lùi dần tình trạng khuyết danh tác giả những áng văn chương trong kho tàng văn học hán-nôm nước nhà.

                                                       Đoàn Xuân Kiên

(1) Cho đến nay, tác phẩm này đã được khắc in nhiều lần. Bản in chữ nôm cũ nhất còn giữ được là Phan Trần Truyện, bản khắc in vào mùa thu năm Đinh Mão (1867), thời vua Tự Đức (hiện còn một bản lưu tại thư viện École des Langues Orientales, Paris). Sau đó nhiều bản in khác hiện còn bản in lưu tại các thư viện hán nôm các nơi: bản in Phan Trần Truyện khắc in năm Nhâm Thìn (1892), đời vua Thành Thái (hiện còn bản lưu trữ tại Bibliothèque Nationale, Paris) ; một bản Phan Trần Truyện khác in năm Nhâm Dần (1902), cũng vào đời Thành Thái (một bản in hiện lưu tại thư viện Viện Hán Nôm, Hà Nội); một bản in Phan Trần Truyện nữa khắc in mùa đông 1926, vào đời Bảo Đại (hiện còn một bản in tại thư viện Viện Hán Nôm, Hà Nội). Một bản khắc in khác được thực hiện mùa hạ năm Giáp Thìn (1904), đời Thành Thái, có tựa đề Phan Trần Truyện Trùng Duyệt, có khi gọi là Phan Trần Truyện Tăng Đính (có bản in hiện lưu tại thư viện Viện Hán Nôm, Hà Nội).

Bản in chữ quốc ngữ cũng có khá nhiều, rải rác từ cuối thế kỉ XIX đến nay. Bản in sớm nhất là Phan Trần Truyện do Trương Vĩnh Ký phiên chuyển, và do nhà in A. Bock in năm 1889 (có một bản lưu tại thư viện École des Langues Orientales, Paris); Phan Trần Truyện Dẫn Giải do Đinh Xuân Hội biên tập tại Toà Hán Việt Tu Nguyên, và do nhà Tân Dân Thư Quán xuất bản năm 1930; Truyện Phan Trần do Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích, và do nhà Tân Việt xuất bản tại Sài Gòn (1952); bản in Truyện Phan Trần, do Nguyễn Trác, Lê Tư Thực và Nguyễn Tường Phượng hiệu đính, khảo thích và giới thiệu, do nhà Văn Hoá xuất bản (Hà Nội, 1961). 

Ngoài ra, phải kể đến hai bản in vừa nôm vừa chữ quốc ngữ sau đây: bản thứ nhất là Phan Trần (roman en vers), do Maurice Durand khảo đính, phiên chuyển và giới thiệu từ văn bản Phan Trần Trùng Duyệt (do Thần Khê Đồng Phong Thừa Thư khắc in năm 1904), do École Francaise d'Extrême-Orient xuất bản (hai tập in ronéo, Paris, 1962); và bản in mới: Truyện Phan Trần do Trần Nghĩa khảo đính, phiên chuyển từ bản in cổ nhất hiện còn (bản in đời Tự Đức, 1867), và giới thiệu, nhà xuất bản Văn Học (Hà Nội) in năm 2009. 



Hai bản phiên chuyển ra chữ quốc ngữ có kèm bản nôm này đã chọn hai bản in thuộc hai hệ khắc bản khác nhau, và dù hai bản khắc mà hai vị sử dụng có quãng cách thời gian khác nhau 42 năm thì chúng cũng chỉ là các truyền bản từ những bản in cũ trước đó mà thôi. Tính cách chung của các khắc bản ra đời cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX đều mang sắc thái chữ nôm thế kỉ XIX đã được điển chế nhiều so với chữ nôm những thời kì sớm hơn. Sắc thái chữ nôm điển chế này có lẽ đã định hình từ khi có bộ từ điển Nhật Dụng Thường Đàm của Phạm Đình Hổ (1851). Ngoài lẽ trên liên quan đến chữ Nôm của văn bản, còn yếu tố ngôn từ: hai bản in thuộc hai hệ bản khắc nói trên cũng không cho thấy tính cách cổ hơn của bản in trước, vì đều là ngôn từ sử dụng trong thời cuối Lê - đầu Nguyễn. (Có nhiều từ ngữ trong bản phiên chuyển của Trần Nghĩa được ông cho là "cổ" nhưng vẫn còn ghi lại trong từ điển Taberd (1838). CHo nên muốn thẩm định việc khảo đính văn bản thì còn cần thêm công phu hơn nữa). Vì lẽ trên, chúng tôi chọn dùng bản phiên chuyển từ Phan Trần Truyện Trùng Duyệt (1904).

(2) Hoàng Xuân Hãn, Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo (Nxb. Minh Tân, Paris, 1953), tr. 207-218.

(3) Theo Maurice Durand. Xem: Digital Collections: Cung Oán Thi (AB. 549): http://findit.library.yale.edu/catalog/digcoll:4671

(4) Xem: Thuỵ Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn & Tạ Trọng Hiệp (Nxb. Văn Nghệ, USA, 2002), tr. 188-189.

(5) Xem: Phạm Văn Diêu, Văn Học Việt Nam (Tân Việt, 1960), tr. 659.

(6) Tương truyền là khi "bài phú ông Lượng" được lưu hành từ buổi tế hạ năm Tân Dậu hoàng triều Bảo Hưng (1801), bài văn đã mau chóng trở thành một hiện tượng văn học đương thời: dân Hà thành hồi ấy đổ xô đi tìm mua giấy mực về chép lại khiến cho giá giấy phường Hàng Giấy, Hàng Gai vọt hẳn lên.(Theo sách Thăng Long – Hà Nội ngàn năm văn hiến. Nxb. Lao động, 2009, trang 312.)

Văn Việt, ngày 21/03/2019 (http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/phai-chang-tc-gia-truyen-phan-tran-l-nguyen-huy-luong/)

                                             
                                          Phụ đính:

Tiểu sử Nguyên Huy Lượng
trích theo Wikipedia có bổ sung:

Nguyễn Huy Lượng bút hiệu là Bạch Liên Am Nguyễn tiên sinh, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, sau dời sang làng Lương Xá, huyện Chương Mỹtỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Chương Mỹthành phố Hà Nội).
Họ Nguyễn Huy là một trong những họ có nhiều người hiển đạt của làng Phú Thị. Nguyễn Huy Nhuận đỗ tiến sĩ năm 1703 (làm quan trải đến chức tể tướng). Con ông là Nguyễn Huy Dẫn đỗ tiến sĩ năm 1748. Con ông Dẫn là Nguyễn Huy Cẩn đỗ tiến sĩ năm 1760, v.v...Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc, thì dường như cha Nguyễn Huy Lượng có dính líu đến vụ tố cáo âm mưu Trịnh Khải chống lại cha là chúa Trịnh Sâm, nên khi Trịnh Khải lên làm chúa thì ông phải lánh sang tị nạn ở làng Lương Xá. Tuy nhiên, theo Gs. Nguyễn Lộc thì cha Nguyễn Huy Lượng không đỗ đạt gì, chỉ ở nhà chuyên làm ruộng (Theo Từ Điển Văn Học, bộ mới. Nxb. Thế Giới, 2004, tr. 1249).
Dưới thời Lê-Trịnh, Nguyễn Huy Lượng thi đỗ hương cống (cử nhân), được bổ làm Phụng nghị ở bộ Lễ (tức là một chức quan nhỏ phụ trách việc xem xét các lễ vật khi cúng tế).
Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung ra Bắc, đại phá quân Thanh (Trung Quốc), giải phóng Bắc Hà. Nguyễn Huy Lượng sau đó ra làm quan cho triều Tây Sơn.
Năm 1801, vua Cảnh Thịnh làm lễ tế giao ở một địa điểm gần hồ Tây, đã giao cho Nguyễn Huy Lượng, bấy giờ đang là Hữu thị lang bộ Hộ (nên còn được gọi là Hữu Hộ Lượng, tước Chương Lĩnh hầu), soạn một bài thơ và một bài phú tiến dâng, và bài Tụng Tây Hồ phú nổi tiếng đã ra đời nhân dịp này.
Sau khi nhà Tây Sơn bị diệt, triều Nguyễn (Gia Long) triệu tập ông, bổ làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Khi vua Gia Long đi tuần du, ông được đi theo. Nhờ vậy, ông soạn được bài Ngự đạo hành cung nhật trình (Con đường từng ngày của nhà vua qua các hành cung).
Theo sách Minh đô sử thì ông bị bức tử năm 1808, nhưng theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì ông bị chết trận tại nơi trị nhậm, năm 1807.

Sáng tác của Nguyễn Huy Lượng đều viết bằng chữ Nôm, hiện còn:
·      Tụng Tây Hồ phú (Phú ca tụng hồ Tây). Đây là bài phú chữ Nôm, gồm 86 liên, dùng chỉ một vần "hồ" (độc vận). Dụng ý của tác giả là mượn cảnh Tây Hồ để tán tụng sự nghiệp và công đức của nhà Tây Sơn. Đây là lúc triều đại này đã suy mà ông vẫn viết nên bài phú với một niềm say sưa không hề giảm.
·        Lượng như long phú (Phú Lượng như rồng).
·    Ngự đạo hành cung nhật trình (Con đường từng ngày của nhà vua qua các hành cung).
·      Cung oán thi (Thơ về nỗi oán của người cung nữ). Đây là tập thơ gồm 100 bài thơ Đường luật (thất ngôn bát cú). Có tài liệu nói đây là tác phẩm của Vũ Trinh hoặc Nguyễn Hữu Chỉnh, tuy nhiên gần đây mới xác định là của ông.
·      Văn tế tướng sĩ trận vong (khoảng cuối năm 1802, tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành tổ chức tế truy điệu các tướng sĩ trận vong tại Thăng Long, có mời một số văn gia nho thần làm hộ văn tế, trong đó có bài của Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng. Bài của ông Lượng được chọn đọc tại cuộc tế đàn này.)
·      Chinh phụ ngâm (phỏng dịch)
·      Phan Trần truyện







  Phan Châu Trinh - ánh đuốc duy tân xuyên thế kỷ Đoàn Xuân Kiên Những năm đầu thế kỉ XX báo hiệu một bước ngoặt lớn của lịch sử nước nhà về...